Phát triển kinh tế du lịch gắn với đảm bảo an ninh môi trường ở tỉnh Ninh Bình - 2


- Thực trạng PTKTDL gắn với ĐBANMT ở tỉnh Ninh Bình ra sao?

- Giải pháp nào để PTKTDL gắn với ĐBANMT ở tỉnh Ninh Bình trong thời kỳ phát triển mới đến 2030?

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Đánh giá thực trạng PTKTDL gắn với ĐBANMT ở tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2010-2019 và đề xuất giải pháp nhằm PTKTDL gắn với ĐBANMT ở tỉnh Ninh Bình đến năm 2030.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm rõ cơ sở lý luận về PTKTDL gắn với ĐBANMT;

- Nghiên cứu kinh nghiệm một số quốc gia, địa phương có những nét tương đồng với Ninh Bình trong PTKTDL gắn với ĐBANMT, từ đó rút ra bài học cho tỉnh Ninh Bình;

- Phân tích, đánh giá thực trạng PTKTDL gắn với ĐBANMT ở tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2010-2019 trên cơ sở khung lý thuyết đã xây dựng ở chương 2.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 183 trang tài liệu này.

- Đề xuất định hướng và các giải pháp PTKTDL gắn với ĐBANMT ở tỉnh Ninh Bình đến năm 2030.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Phát triển kinh tế du lịch gắn với đảm bảo an ninh môi trường ở tỉnh Ninh Bình - 2

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là PTKTDL gắn với ĐBANMT dưới góc độ kinh tế chính trị. Tuy nhiên, đề tài luận án chỉ tập trung nghiên cứu PTKTDL gắn với ĐBANMT trên địa bàn cấp tỉnh.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa PTKTDL và ĐBANMT; Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn PTKTDL gắn với ĐBANMT. Về môi trường, luận án tập trung nghiên cứu ĐBANMT tự nhiên và môi trường xã hội nhân văn chỉ được đề cập trong trường hợp cần thiết.

- Về không gian: Luận án nghiên cứu PTKTDL gắn với ĐBANMT trên

địa bàn tỉnh Ninh Bình.


- Về thời gian: Đề tài luận án nghiên cứu thực trạng PTKTDL gắn với ĐBANMT trên địa bàn tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2010-2019, đề xuất giải pháp PTKTDL gắn với ĐBANMT của tỉnh đến năm 2030.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin; các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về PTKTDL gắn với ĐBANMT. Đồng thời, luận án kế thừa một cách có chọn lọc các công trình nghiên cứu có liên quan đến PTKTDL, môi trường, ĐBANMT và PTKTDL gắn với ĐBANMT.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

* Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng

- Phương pháp trừu tượng hóa khoa học: Là phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học kinh tế chính trị. Phương pháp này cho phép gạt bỏ những yếu tố ngẫu nhiên xảy ra trong quá trình và những hiện tượng được nghiên cứu, tách ra những cái điển hình, bền vững, ổn định trong những hiện tượng và quá trình đó, trên cơ sở ấy nắm được bản chất của các hiện tượng, hình thành những phạm trù, những quy luật phản ánh bản chất đó.

- Phương pháp lôgic với lịch sử: Luận án sử dụng biện pháp nghiên cứu này, bởi cùng một đối tượng nghiên cứu, nhưng trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau ở các quốc gia khác nhau thì sẽ có sự khác nhau. Việc nghiên cứu PTKTDL gắn với ĐBANMT trên địa bàn tỉnh phải có tính động, gắn với quá trình phát triển qua các thời kỳ khác nhau, vừa tuân thủ những vấn đề lý luận chung, vừa phải tính đến tác động của yếu tố lịch sử cụ thể của Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay, từ đó có những đề xuất phù hợp và khả thi.

- Phương pháp phân tích - tổng hợp: Luận án sử dụng phương pháp này trong toàn bộ quá trình nghiên cứu của mình, trước hết là phân tích rõ nội dung PTKTDL gắn với ĐBANMT trên địa bàn cấp tỉnh. Phân tích kinh nghiệm của một số quốc gia và địa phương trong PTKTDL gắn với ĐBANMT để tổng hợp thành các bài học đối với tỉnh Ninh Bình. Luận án phân tích thực trạng PTKTDL


gắn với ĐBANMT, từ đó tổng hợp, đánh giá những thành tựu, hạn chế làm căn cứ cho việc đề xuất giải pháp nhằm PTKTDL gắn với ĐBANMT của tỉnh Ninh Bình đến năm 2030.

- Phương pháp so sánh: Trên cơ sở các thông tin thu thập được, tác giả luận án phân tích, xử lý thông tin, so sánh thực trạng PTKTDL gắn với ĐBANMT ở tỉnh Ninh Bình với những yêu cầu mang tính lý thuyết, tham khảo kinh nghiệm, so sánh thực trạng hiện nay với các giai đoạn trước đây … từ đó có những đề xuất phù hợp với lý luận, với thực tiễn tỉnh Ninh Bình, kế thừa được thành tựu của các quốc gia, tỉnh đã tham khảo kinh nghiệm.

* Nguồn tài liệu nghiên cứu: Nguồn tài liệu thứ cấp được sử dụng, tổng hợp, phân tích trong luận án chủ yếu là các tài liệu đã được công bố trên sách, báo, tạp chí, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước; tài liệu của các cơ quan quản lý tỉnh Ninh Bình, như: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Kế hoạch và Đầu tư,…. Sau khi thu thập số liệu từ các nguồn, để đưa vào các bảng, biểu đồ minh họa cho các luận giải, phân tích trong luận án.

5. Đóng góp mới của luận án

- Đưa ra cơ sở lý luận về PTKTDL gắn với ĐBANMT ở địa bàn cấp tỉnh, với 3 nội dung quan trọng: Khái niệm và sự cần thiết phải PTKTDL gắn với ĐBANMT; Nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến PTKTDL gắn với ĐBANMT.

- Đánh giá một cách khách quan, trung thực thực trạng PTKTDL gắn với ĐBANMT ở tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2010-2019. Từ đó rút ra những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế.

- Đề xuất những giải pháp mang tính toàn diện, khả thi nhằm PTKTDL gắn với ĐBANMT ở tỉnh Ninh Bình đến năm 2030.

6. Kết cấu luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu thành 4 chương, 9 tiết.


Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN


Cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu trong và ngoài nước được công bố liên quan đến chủ đề nghiên cứu của luận án. Các công trình đã đạt được những kết quả nhất định, là cơ sở để định hướng cho nghiên cứu tiếp theo của luận án.

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1.1. Những công trình nghiên cứu lý luận về phát triển kinh tế du lịch gắn với đảm bảo an ninh môi trường

1.1.1.1. Những công trình nghiên cứu về phát triển kinh tế du lịch

Những công trình nghiên cứu lý luận về PTKTDL của các tác giả trong và ngoài nước đã hướng vào các vấn đề giải thích phạm trù phản ánh hoạt động liên quan đến kinh doanh du lịch, dịch vụ du lịch, các hình thức dịch vụ du lịch, cơ chế vận hành hoạt động kinh doanh du lịch,… trong đó, tiêu biểu phải kể đến các công trình sau:

Theo tác giả William Theobald trong cuốn“Global Tourism - The next decade” (Du lịch toàn cầu - Thập kỷ tới) [157]. Nội dung cuốn sách giới thiệu khái niệm và phân loại du lịch; xác định những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của du lịch; định hướng và kế hoạch PTDL.

Trong cuốn“Leisure and Tourism” (Giải trí và Du lịch) của các tác giả John Ward, Phil Higson và William Campbell [147]. Nội dung cuốn sách đi sâu nghiên cứu về ngành công nghiệp du lịch và giải trí được thực hiện thông qua việc phân tích các hình mẫu và xu hướng, các sản phẩm và dịch vụ trong ngành du lịch và giải trí cũng như các tác động của nó đến kinh tế, xã hội, văn hóa hay môi trường. Ngoài ra, nội dung nghiên cứu còn đề cập đến vấn đề tiếp thị, cung cấp các dịch vụ thông tin quản lý, việc lên kế hoạch và đánh giá các sự kiện cũng như các nguồn cơ sở hạ tầng cho các dự án du lịch và giải trí.

Tác giả Nguyễn Văn Đính và Trần Thị Minh Hòa (2006) trong cuốn “Giáo trình kinh tế du lịch” [39] đã đưa ra một số khái niệm như: du lịch,


khách du lịch, sản phẩm du lịch và tính đặc thù của du lịch; lịch sử hình thành, xu hướng phát triển và tác động của du lịch đến KT-XH, khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của du lịch thế giới; hệ thống hóa những xu hướng phát triển cơ bản của cầu và cung du lịch trên thế giới và phân tích các tác động về KT-XH của du lịch đối với một địa bàn PTDL (dưới góc độ một quốc gia). Cung cấp một số kiến thức về: cầu du lịch, loại hình du lịch và các lĩnh vực kinh doanh du lịch; điều kiện để PTDL; tính thời vụ trong du lịch; lao động trong du lịch; cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch; chất lượng dịch vụ du lịch; hiệu quả KTDL; quy hoạch PTDL; tổ chức và quản lý ngành du lịch.

Đặc biệt các tác giả đã đưa ra một số khái niệm liên quan đến KTDL như: Kinh doanh lữ hành, bao gồm: Kinh doanh lữ hành và kinh doanh đại lý lữ hành. Kinh doanh khách sạn; Kinh doanh vận chuyển khách du lịch; Kinh doanh các dịch vụ khác.

Ngoài ra, các tác giả nêu ra khái niệm hiệu quả KTDL, theo đó:

Hiệu quả kinh tế du lịch thể hiện mức độ sử dụng các yếu tố sản xuất và tài nguyên du lịch nhằm tạo ra và tiêu thụ một khối lượng lớn nhất các dịch vụ và hàng hóa có chất lượng cao nhất trong một khoảng thời gian nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch với chi phí nhỏ nhất đạt doanh thu cao nhất và thu lợi nhuận tối đa. Nói cách khác, hiệu quả kinh tế du lịch phản ánh trình độ sử dụng nguồn lực sẵn có để đạt được kết quả sản xuất kinh doanh cao nhất với chi phí thấp nhất [39, tr.262].

Và đưa ra một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả KTDL như: Nhóm chỉ tiêu hiệu quả kinh tế đánh giá sự đóng góp của ngành du lịch vào nền kinh tế quốc dân, bao gồm: Tổng doanh thu xã hội từ du lịch; tổng doanh thu thuần túy bản thân ngành du lịch; tỷ trọng đóng góp của ngành du lịch trong GDP của nền kinh tế quốc dân; doanh thu bình quân đầu người của ngành du lịch; Nhóm chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của các lĩnh vực kinh doanh trong ngành du lịch như: kinh doanh lữ hành; kinh doanh lưu trú; kinh doanh ăn uống; kinh doanh vận tải du lịch; các ngành dịch vụ du lịch khác [39, tr.266-267].

Trong cuốn “Kinh tế du lịch và du lịch học” của hai tác giả Trung Quốc là

Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình [74]. Nội dung cuốn sách đề cập đến một số


vấn đề lý luận cơ bản về du lịch và KTDL: khái niệm về du lịch, khái quát về KTDL, sản phẩm du lịch, thị trường du lịch, vai trò của KTDL, quy hoạch xây dựng khu du lịch, v.v...

Trong cuốn “Kinh tế du lịch” của tác giả Robert Lanquar [88], đã khẳng định: KTDL là ngành công nghiệp, vì nó là toàn bộ những hoạt động nhằm khai thác các của cải du lịch, nhằm biến các tài nguyên nhân lực, tư bản và nguyên liệu thành dịch vụ và sản phẩm. Ngoài ra, tác giả cũng nêu ra những ảnh hưởng của du lịch đến nền kinh tế. Yêu cầu về du lịch, sự tiêu dùng của du lịch, sản xuất cho du lịch, đầu tư du lịch. Những công cụ và phương tiện phân tích kinh tế học du lịch và kinh doanh du lịch.

Trong cuốn “Phát triển kinh tế du lịch ở vùng du lịch Bắc Bộ và tác động của nó tới quốc phòng - an ninh” của tác giả Nguyễn Đình Sơn, thì

Kinh tế du lịch là một phạm trù phản ánh bước tiến mới của lực lượng sản xuất trong quá trình tổ chức khai thác các tài nguyên du lịch của đất nước thành sản phẩm du lịch nhằm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước, tổ chức buôn bán xuất khẩu tại chỗ hàng hóa và dịch vụ thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng cho du khách, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho con người, thúc đẩy kinh tế- xã hội phát triển [100, tr.23].

1.1.1.2. Những công trình nghiên cứu về đảm bảo an ninh môi trường

Trong cuốn “Giáo trình môi trường đại cương” của tác giả ThS Nguyễn Thị Phương Thảo [107] đã chỉ ra môi trường sống của con người theo chức năng, được chia thành 3 loại: Môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và nhân văn và môi trường nhân tạo. Và cho rằng trên thực tế, ba loại môi trường này đều cùng tồn tại, xen kẽ, tương tác lẫn nhau rất chặt chẽ.

Trong cuốn “Tài nguyên thiên nhiên môi trường với sự tăng trưởng bền vững ở Việt Nam” của tác giả Trần Văn Chử [26] và Trần Thị Thanh Huyền trong bài “Chức năng cơ bản của môi trường” [59] đã chỉ ra môi trường có 5 chức năng cơ bản: Là không gian sống của con người và các loài sinh vật; Môi trường là nơi chứa đựng các nguồn tài nguyên cần thiết cho đời sống cũng như sản xuất của con người; Môi trường là nơi chứa đựng các chất thải do con người


tạo ra trong quá trình sống và lao động sản xuất; Môi trường còn có chức năng lưu trữ và cung cấp nguồn thông tin cho con người; Môi trường chính là nơi bảo vệ con người và sinh vật khỏi những tác động từ bên ngoài.

Năm 1972, lần đầu tiên vấn đề ANMT được đưa vào Chương trình Nghị sự quốc tế tại Hội nghị Liên hợp quốc về môi trường và con người ở Stốckhôm Thụy Điển. Nhưng phải đến năm 1987, tại Đại hội Liên hợp quốc lần đầu tiên trong văn bản chính thức đề cập đến khái niệm về ANMT: “Quản lý nguồn tài nguyên không hợp lý, lãng phí đều uy hiếp đối với an ninh. Sự biến đổi tiêu cực của môi trường đang uy hiếp đối với sự phát triển ... trở thành nguyên nhân của các căng thẳng và tiêu cực xã hội, ảnh hưởng đến nhân loại như đói nghèo, mù chữ, dịch bệnh ...) [111].

Theo Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc ANMT được hiểu là “sự khan hiếm các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái và ô nhiễm môi trường và những hiểm họa (môi trường) có thể gây suy yếu nền kinh tế, gia tăng đói nghèo, gia tăng bất ổn chính tri, thậm chí trở thành ngòi nổ cho các cuộc xung đột và chiến tranh” [49, tr.27].

Theo Báo cáo Thiên niên kỷ của Hội đồng Châu Mỹ của Liên hiệp quốc, có thể hiểu, ANMT là trạng thái hệ thống các yếu tố cấu thành môi trường (đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật và các hình thái vật chất khác) cân bằng để đảm bảo điều kiện sống và phát triển của con người cũng như các loài sinh vật trong hệ thống đó. Giữ gìn ANMT là BVMT sống, môi trường tồn tại của con người và xã hội loài người. An ninh môi trường không được đảm bảo thì xã hội không có sản xuất vật chất, không có đời sống tinh thần, không có sự tồn tại và phát triển.

Dự án Thiên niên kỷ của Hội đồng Châu Mỹ của Liên hợp quốc xác định “ANMT là việc đảm bảo an toàn trước các mối nguy hiểm môi trường sinh ra do sự yếu kém trong quản lý hoặc thiết kế và có nguyên nhân trong nước hay xuyên quốc gia” [49, tr.27].

Theo Luật BVMT năm 2014, theo đó “An ninh môi trường là việc bảo đảm không có tác động lớn của môi trường đến sự ổn định chính trị, xã hội và phát triển kinh tế của quốc gia” [85, tr.11].


Cuốn sách “Đảm bảo an ninh môi trường cho phát triển bền vững” do Nguyễn Đình Hòe và Nguyễn Ngọc Sinh biên soạn [48] đã cung cấp cho người đọc những khái niệm mới và và kiến thức hữu ích về vấn đề sống còn của môi trường trong sự PTBV. Trọng tâm của cuốn sách trình bày về vấn đề tranh chấp quốc gia và liên quan tới tài nguyên; nguy cơ mất an ninh do thảm họa thiên tai, sự cố môi trường. Đặc biệt, vấn đề ONMT xuyên quốc gia, tệ nạn môi trường, nhiễm loạn sinh thái ... đề xuất giải pháp ứng phó với các vấn đề ANMT nói chung và đối với từng vấn đề cụ thể đã từng xẩy ra tại Việt Nam nói riêng.

Trong cuốn sách “An ninh môi trường” của tác giả Nguyễn Đức Khiển và Nguyễn Kim Hoàng [61], nội dung cuốn sách được kết cấu thành 7 chương, đề cập đến: An ninh môi trường; mất ANMT; những thách thức về môi trường trên thế giới; Hậu quả của sự cố và ONMT đến an ninh xã hội và sức khỏe cộng đồng; xóa đói giảm nghèo, biện pháp hữu hiệu để BVMT và PTBV và hậu quả của sự cố và ONMT đến an ninh xã hội và sức khỏe cộng đồng.

1.1.1.3. Những công trình nghiên cứu về phát triển kinh tế du lịch gắn với đảm bảo an ninh môi trường

Các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên

Khi bàn về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên C.Mác quan niệm: Giới tự nhiên cụ thể là cái giới tự nhiên trong chừng mực bản thân nó không phải là thân thể của con người - là thân thể vô cơ của con người. Con người sống bằng giới tự nhiên. Như thế nghĩa là giới tự nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với nó con người phải ở lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại. Nói rằng đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên, nói như thế chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với bản thân tự nhiên, vì con người là một bộ phận của tự nhiên” [70, tr.135].

và “Công nhân không thể tạo ra cái gì khác nếu không có giới tự nhiên, nếu

không có thế giới hữu hình bên ngoài. Đó là vật liệu, trong đó lao động của anh ta triển khai, từ đó và nhờ đó, lao động của anh ta sản xuất ra sản phẩm” [70, tr.130].

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/03/2023