Những Vấn Đề Đặt Ra Cần Giải Quyết Từ Thực Trạng Khu Kinh Tế Ven Biển Ở Các Tỉnh Bắc Trung Bộ


dựng,... trong các KKTVB. Qua đó, góp phần ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của KKTVB đối với sự phát triển KT­XH ở các tỉnh BTB.

Năm là, vai trò và sự phối hợp giữa các chủ thể tham gia xây dựng, quản lý KKTVB không ngừng được phát huy.

Chính phủ, các Bộ, Ngành, cấp ủy, chính quyền địa phương các tỉnh BTB là các chủ thể tham gia xây dựng, quản lý KKTVB đã quán triệt sâu sắc chủ trương về KTB nói chung và KKTVB nói riêng của Đảng trong các nghị quyết về chiến lược biển Việt Nam; nghị định của Chính phủ về phát triển, quản lý KKTVB. Trên cơ sở, nắm chắc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi chủ thể trong phát triển KKTVB. Vai trò và sự phối hợp giữa

các chủ thể tham gia trong tổ chức, triển khai các nghị quyết, hínhc sách,

Nghị định của chính phủ liên quan đến quá trình quy hoạch, mở rộng; trong

thẩm định, đánh giá, phê duyệt, triển khai các kế hoạch liên quan đến

KKTVB đã có sự phối hợp tương đối đồng bộ giữa các Bộ, Ngành, UBND các tỉnh, BTB. Trong thực hiện luôn có sự quản lý chặt chẽ, đánh giá đúng

hiệu quả

các đề

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 248 trang tài liệu này.

án quy hoạch, kế

hoạch và các dự

Phát triển khu kinh tế ven biển ở các tỉnh Bắc Trung Bộ - 18

án đầu tư

trong

KKTVB. Từ

đó, đem lại hiệu quả

tích cực cho KKTVB

ở các tỉnh BTB

trong những năm qua.

3.2.1.2. Nguyên nhân hạn chế

* Nguyên nhân khách quan

Mt là, mặc dù thể chế, cơ chế, chính sách dành cho khu kinh tế ven biển ngày càng thông thoáng và đồng bộ nhưng vẫn còn những bất cập.

Hiện nay, thể chế, cơ chế, chính sách dành cho KKTVB ở Việt Nam chưa có khung pháp lý cao nhất là Luật KKT mà mọi hoạt động của

KKTVB thực hiện những nội dung của Nghị định số 29/2008/NĐ­CP ngày

14/3/2008, Quy định về

KCN, khu chế

xuất và KKT và Nghị

định số

82/2018/NĐ­CP ngày 22 tháng 5 năm 2018, Quy định về quản lý KCN, KKT


và thực hiện theo một số

Luật chung có liên quan. Thực tế

cho thấy,

KKTVB được hưởng cơ chế ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu, tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, tín dụng đầu tư. Các ưu đãi đầu tư này đều nằm trong khung pháp luật cho phép, được quy định tại pháp luật chuyên ngành về KKT và cả trong quy định pháp luật về thuế,

đất đai, tín dụng. Do đó, khi áp dụng ưu đãi cho KKT trong thực tế

thường gặp khó khăn, vướng mắc do có sự không thống nhất giữa các hệ

thống văn bản pháp luật này. Đặc biệt, những ưu đãi áp dụng cho

KKTVB là giống nhau chưa có sự phân loại giữa KKTVB nằm trong

Quyết định số 1353/QĐ­TTg ngày 23 tháng 09 năm 2008, Về việc phê

duyệt Đề án “Quy hoạch phát triển các KKTVB của Việt Nam đến năm 2020” với KKTVB còn lại, đây chính là nguyên nhân KKTVB Việt Nam

nói chung và

ở các tỉnh BTB nói riêng

chưa hiệu quả, chưa có nhiều

những dự án đầu tư động lực với quy mô lớn.

Hai là, những tác động từ mặt trái của hội nhập quốc tế, hợp tác về kinh tế biển của cả nước nói chung và các tỉnh Bắc Trung Bộ nói riêng.

Hội nhập quốc tế là yếu tố ngoại lực quan trọng để Việt Nam phát triển KTB nói chung và KKTVB nói riêng một cách có hiệu quả, với nhiều dự án đầu tư nước ngoài có trình độ công nghệ cao, góp phần thúc đẩy cơ

cấu KTB nói chung và cơ cấu ngành (khu chức năng) trong KKTVB theo

hướng hiện đại. Tuy nhiên, bên cạnh những ảnh hưởng tích cực thì hội

nhập quốc tế cũng tạo ra sức ép cho các từng ngành trong KKTVB trong đổi mới quản lý, cải tiến công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm đầu ra. Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế, hợp tác về KTB còn ảnh hưởng trực tiếp, làm nảy sinh những vấn đề liên quan đến bảo đảm quốc phòng, an ninh trên biển nói chung và trong KKTVB nói riêng, nhất là các vấn đề liên quan đến an ninh phi truyền thống.


Ba là, công tác quy hoạch, kế hoạch về những bất cập.

khu kinh tế ven biển còn

Đây là nguyên nhân ảnh hưởng lớn đến quy mô, chất lượng và cơ cấu KKTVB ở các tỉnh BTB trong thời gian qua. Thực tế cho thấy trong một thời gian ngắn, ở 06 tỉnh có 06 KKTVB được thành lập, sát nhau về mặt địa lý, tương đồng về mô hình phát triển. Trong khi đó, nguồn lực ở các tỉnh BTB còn nhiều hạn chế chưa đáp ứng kịp mô hình phát triển KKTVB ở mỗi địa phương, dẫn đến tình trạng thiếu nguồn vốn đầu tư, thiếu nguồn lao động chất lượng cao, thêm vào đó là tính cục bộ địa phương, cạnh tranh nhau trong

quá trình thu hút đầu tư; vấn đề liên kết vùng giữa các địa phương, doanh

nghiệp trong KKTVB chưa có cơ

chế, thoả

thuận được ký kết… Tất cả

những vấn đề trên đang là nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả và tỷ lệ lấp đầy KKTVB ở các tỉnh BTB trong thời gian qua.

Bn là, sự khắc nghiệt của khí hậu, thời tiết, môi trường biển ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.

Các tỉnh BTB cũng là khu vực chịu nhiều ảnh hưởng của thiên tai, nhất là bão, áp thấp nhiệt đới tây Thái Bình Dương, kèm theo đó là ngập lụt gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản. Theo thống kê, hàng năm, các tỉnh BTB chịu ảnh hưởng trên 10 cơn bão lớn nhỏ đi qua, đây cũng là vùng hàng năm có những đợt mưa với lưu lượng lớn từ 300­500 milimet gây ngập úng cục bộ và thiệt hại nặng nề cho các tỉnh BTB trong đó có KKTVB, làm làm hư hỏng hệ thống cơ sở hạ tầng, hệ thống cảng biển và các khu chức năng nằm sát mặt biển. Đồng thời, tính chất khắc nghiệt của khí hậu miền

Trung

ảnh hưởng tới

quá trình phát triển KKTB nói chung và KKTVB nói

riêng. Thiên tai thường diễn ra nhanh, bất thường ảnh hưởng tiêu cực trực tiếp tới việc phát triển, mở rộng quy hoạch và các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh trong KKTVB ở các tỉnh BTB. Mặt khác, sau sự cố môi trường


biển năm 2016 các nhà đầu tư trong và ngoài nước vẫn chưa yên tâm đầu tư vào KKTVB nhất là các dự án lớn.

* Nguyên nhân chủ quan

Một là,

nhận thức của một bộ

phận cán bộ, nhân dân về

vai trò

KKTVB đối với sự phát triển KT­XH của địa phương có nội dung chưa đầy đủ.

Mặc dù những năm gần đây, nhận thức của một bộ phận cán bộ,

nhân dân về vai trò KKTVB đối với sự phát triển KT­XH của địa

phương không ngừng được nâng lên. Tuy nhiên, nhận thức chưa đồng

đều, chưa đầy đủ, vẫn còn một số chính quyền và nhân dân địa phương chậm đổi mới tư duy, sợ thất bại. Bên cạnh đó, tâm lý lo lắng, thiếu tự

tin; thiếu thông tin khi chuyển đổi từ

sinh kế

bám biển truyền thống

sang phát triển những ngành KTB hiện đại gắn với phát triển các khu

công nghiệp; du lịch; thương mại; dịch vụ vận tải trong KKTVB, của

một bộ

phận cán bộ

và nhân dân chưa đầy đủ. Do vậy, chưa tạo nên

được sự thống nhất trong nhận thức; quyết tâm trong hành động trong

thực hiện chủ trương Đảng, Nhà nước và UBND các tỉnh về những vấn

đề liên quan đến KKTVB. sự năng động sáng tạo, linh hoạt trong ban

hành cơ chế, chính sách

Hai là, mặc dù cơ chế, chính sách trong đầu tư xây dựng, quản lý khu kinh tế ven biển của các tỉnh BTB đã chủ động, linh hoạt nhưng có nội dung còn chồng chéo, thiếu tính thống nhất.

Những năm qua, các tỉnh BTB đã tích cực chủ động trong vận dụng co

chế, chính sách của Trung

ương và các bộ, ngành tạo nhằm tạo cơ

chế,

chính sách cho KKTVB phát triển. Tuy nhiên, hiện nay KKTVB ở các tỉnh BTB phát triển chưa đạt được theo đề án quy hoạch ban đầu, thực tế phát triển so với kỳ vọng ban đầu chưa tương xứng nên các dự án đăng ký ban đầu không quyết tâm đầu tư do tính hiệu quả thấp, đặc biệt là đối với các


dự án về thương mại, dịch vụ. Nguyên nhân chính bắt nguồn từ cơ chế,

chính sách trong đầu tư xây dựng, quản lý các KKTVB còn chồng chéo,

thiếu tính thống nhất. Hiện nay chưa có Luật riêng đối với KKT, chỉ có

Nghị định quy định về KKT được Chính phủ ban hành trong từng thời kỳ. Do KKT liên quan tới nhiều hoạt động, lĩnh vực khác nhau và chịu sự điều

chỉnh của nhiều Luật, Nghị

định chuyên ngành nên thiếu tính

ổn định và

nhất quán chính điều này đã chi phối đến quá trình vận dụng các cơ chế, chính sách về đầu tư, xây dựng và quản lý KKTVB ở các tỉnh BTB. Mặt khác cơ chế phân cấp, ủy quyền hiện nay cho BQL KKT được thực hiện

thiếu ổn định và chỉ ở

một số

nhiệm vụ, quyền hạn nhất định trong các

lĩnh vực, KKT và các doanh nghiệp trong đó vẫn chịu sự quản lý của rất

nhiều cơ

quan quản lý khác nhau. Sự

đan xen quản lý của các cấp, các

ngành làm cơ chế “một cửa” tại BQL không được thực hiện hiệu quả, còn tồn tại nhiều thủ tục hành chính tại nhiều “cửa” khác.

Ba là, các nguồn lực bảo đảm cho

ứng được yêu cầu đặt ra.

khu kinh tế ven biển

chưa đáp

Chất lượng các nguồn lực tham gia phát triển KKTVB ở các tỉnh BTB ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng KKTVB ở các tỉnh BTB. Thực tế cho thấy, mặc dù những năm gần đây chất lượng các nguồn lực tham gia phát triển KKTVB ngày được nâng lên. Tuy nhiên, chưa đáp ứng được so với nhu cầu thực tiễn đặt ra; lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên qua đào tạo ở các tỉnh BTB còn thấp, lao động phổ thông trong KKTVB còn chiếm tỷ lệ cao [Phụ lục 10]; các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh, đầu tư hạ tầng kỹ thuật, xã hội quy mô các dự án còn nhỏ; trình độ công nghệ và năng lực sản xuất có trình độ trung bình và lạc hậu còn chiếm tỷ lệ cao trên tổng số các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh, đầu tư hạ tầng kỹ thuật, xã hội trong KKTVB (Bảng 3.5; 3.6), đây chính là nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của KKTVB ở các tỉnh BTB thời gian qua.


Bốn là,

cấp

ủy, chính quyền một số

tỉnh Bắc Trung Bộ

chưa chú

trọng đúng mức đến bảo đảm giữa lợi ích kinh tế với bảo đảm môi trường và quốc phòng, an ninh trong khu kinh tế ven biển.

Việc giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế với môi trường và quốc phòng, an ninh trong quy hoạch, mở rộng quy hoạch ở một số dự án và trong KKTVB ở các tỉnh BTB còn hạn chế. Do vậy, dẫn tới trong quá trình tổ chức triển khai quy hoạch, xây dựng, cấp phép các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh trong KKTVB ở một số địa phương còn chú trọng về lợi ích kinh tế đơn thuần, thậm chí có dự án trong KKTVB quy hoạch, cấp phép ồ ạt, thiếu tính khoa học, chạy theo số lượng ảnh hưởng tới quá trình xây dựng khu vực phòng thủ ở các tỉnh, huyện nơi có KKTVB hoạt động; thời gian cấp phép đầu tư cho các dự án đầu tư nước ngoài trong KKTVB là 70 năm điều này ảnh hưởng tới quốc phòng, an ninh nhất là vấn đề quản lý lao động và chuyên gia nước ngoài. Mặt khác, tình trạng “trải thảm đỏ” thu hút đầu tư bằng mọi cách, nhiều địa phương chấp nhận đánh đổi giữa

phát triển kinh tế

với bảo vệ

môi trường đây là hệ

lụy không chỉ

trước

mắt mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới phát triển bền vững đối với KKTVB các tỉnh BTB trong thời gian tới.

3.2.2. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết từ thực trạng khu kinh tế ven biển ở các tỉnh Bắc Trung Bộ

Từ thực trạng KKTVB ở các tỉnh BTB trong thời gian qua đang đặt ra một số mâu thuẫn cần phải tập trung giải quyết:

3.2.2.1. Mâu thuẫn giữa phát triển khu kinh tế ven biển theo quy

hoạch dựa trên tiềm năng, lợi thế của các địa phương với tính tự phát, cục bộ địa phương ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.

Phát triển KKTVB là chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước và được Chính phủ cụ thể hóa tổ chức triển khai thống nhất trên phạm vi cả nước, nhằm phát huy thế mạnh, khơi dạy tiềm năng của các địa phương,

nhằm đưa KKTVB giữ

vai trò chủ

đạo trong phát triển vùng và liên kết


vùng ở các tỉnh BTB nói riêng và cả nước nói chung. Đồng thời , lấy các KKTVB làm trung tâm để tạo nên liên kết chặt chẽ giữa các vùng kinh tế

ven biển với nhau trong phát triển KT­XH. Tuy nhiên, thực tế phát triển

KKTVB ở các tỉnh BTB những năm qua cho thấy, ngay từ khâu quy hoạch,

thành lập và hoàn thiện quy hoạch một số KKTVB ở các tỉnh BTB chưa

đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển, còn mang tính cục bộ, chưa được

xem xét một cách tổng thể hài hòa lợi ích của vùng và quốc gia. Nguyên

nhân là do việc đề xuất bổ sung quy hoạch, thành lập KKTVB của một số

địa phương chưa thực sự phù hợp với điều kiện, tiềm năng, lợi thế phát

triển của địa phương mà vì lợi ích ngắn hạn của địa phương; quy hoạch, hoàn thiện quy hoạch KKTVB chưa được xem xét một cách tổng thể hài hòa lợi ích của địa phương, của vùng gắn chặt với lợi ích của quốc gia. Mặt khác, các KKTVB đều có chung định hướng đầu tư, hình thành

KKTVB phát triển đa ngành với nhiều khu chức năng cụ thể: đối với

KKTVB là xây dựng cảng biển nước sâu, sân bay và thu hút đầu tư vào các lĩnh vực như đóng tàu, dịch vụ cảng biển, du lịch biển, chế biến hải sản,

nhiệt điện... do đó chưa phát huy được lợi thế

so sánh dẫn đến sự

cạnh

tranh trong thu hút đầu tư giữa KKTVB. Bên cạnh đó, tính liên kết trong các KKT chưa được chú trọng đúng mức, việc liên kết vùng và liên kết ngành thiếu sự kết nối, thậm chí là có sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các KKT dẫn đến làm giảm hiệu quả đầu tư.

Bên cạnh đó, chưa tạo ra chuỗi giá trị sản phẩm trong liên kết vùng và ngành cũng như sản phẩm của ngành, KKTVB này là đầu vào cho ngành, KKTVB khác và ngược lại nên chưa khai thác tôí đa hiệu quả liên kêt́ trong

sản xuât́ (chưa tối ưu hóa được các yếu tố: giảm chi phí lưu thông, phân

phôí, chi phítrung gian, giảm ảnh hưởng đến môi trường…) vàchưa tao sư

găń

kêt́ bêǹ

vưñ g giữa các KKTVB. Cać tỉnh BTB đều có KKTVB hoạt động

và it́ cósự khać

biệt nhau, khu vưc

Miêǹ

Trung noí chung vàBắc Trung Bộ

noí riêng việc thu hut́ đâù

tư rât́ khókhăn, do đóit́ cócơ hội lựa chon

cać dư

ań , cać

nhàđâù

tư làm cho các nguồn lực có giới hạn không thể tập trung để

tạo ra các lợi thế về quy mô và lợi thế tích tụ trong tô

chưć

sản xuât́ của


vuǹ g, đia

phương. Do vậy, vấn đề

đặt ra trong thời gian tới làm sao cho

KKTVB ở các tỉnh BTB phát triển theo quy hoạch tổng thể chung của cả

nước mà vẫn bảo đảm phát huy được tiềm năng, thế mạnh và lợi thế so sánh của các địa phương.

3.2.2.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu cần phải có một hệ thống cơ chế, chính sách đồng bộ với thực trạng hệ thống cơ chế, chính sách cho khu kinh tế ven biển ở các tỉnh Bắc Trung Bộ còn thiếu, chưa thống nhất

Để KKTVB ở các tỉnh BTB phát triển nhanh, hiệu quả thì cần có hệ thống cơ chế, chính sách, đầy đủ đồng bộ. Những năm qua Việt Nam đã ban hành, sửa đổi các văn bản pháp lý nhằm tạo điều kiện cho KKTVB phát triển, trong đó có cả KKTVB ở các tỉnh BTB. Tuy nhiên, hệ thống cơ chế chính sách phát triển KKTVB ở các tỉnh BTB còn chưa đồng bộ. Hiện nay KKTVB ở các tỉnh BTB thực hiện theo khung pháp lý chung cao nhất là Nghị định của Chính phủ và chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật liên quan như: Luật Đất đai; Luật Tài chính; Luật Đầu tư... Do vậy, nhiều văn bản luật còn chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn với nhau. Chính sách thu hút đầu tư ở các KKTVB chưa vượt trội, chưa thật sự hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư chiến lược thậm chí Nghị định số 82/2018 NĐ­CP ban hành đã xóa bỏ một số ưu đãi so với Nghị định 29/2008 NĐ­CP.

Bên cạnh đó, để tránh mâu thuẫn, xung đột trong các văn bản pháp quy chuyên ngành về chính sách, ưu đãi nên Nghị định số 82/2018 NĐ­CP

chỉ

đưa ra nguyên tắc áp dụng

ưu đãi đầu tư ở

KKTVB đó là “được

hưởng chính sách ưu đãi áp dụng đối với địa bàn thuộc danh mục địa bàn có điều kiện KT­XH đặc biệt khó khăn theo pháp luật về đầu tư”. Tuy nhiên, Luật và Nghị định về đầu tư lại không thể cập nhật đầy đủ các quy định ưu đãi cho KKTVB mà nó còn nằm rải rác ở nhiều Luật khác như (Đầu tư, Đất đai, Tài Chính, Ngân sách…), chính điều này gây khó khăn cho các nhà đầu tư trong việc tìm hiểu các chính sách ưu đãi tại KKTVB và cũng gây khó khăn cho các nhà quản lý trong việc theo dõi các văn bản luật liên quan khi có bất

Xem tất cả 248 trang.

Ngày đăng: 27/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí