là các KKTVB nằm trong quy hoạch của Chính phủ hướng tới xây dựng các KKTVB này thành các Đặc khu kinh tế khi có đủ điều kiện.
Thứ hai, quy mô vốn đầu tư của các dự án trong KKTVB ở các tỉnh BTB chủ yếu là quy mô vừa và nhỏ.
Tính luỹ kế đến năm 2020 tổng số vốn đầu tư vào các dự án sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật, xã hội vào KKTVB ở các tỉnh BTB tương đối cao. Tuy nhiên, quy mô các dự án còn nhỏ chưa tương xứng với tiềm năng KKTVB ở các địa phương. Tổng số vốn đầu tư nước ngoài thu hút được 32.796,40 triệu USD, số vốn trung bình trên một dự án đầu tư nước ngoài là 210,23 triệu USD và 317.876,41 tỷ đồng vốn đầu tư trong nước, số vốn trung bình trên một dự án đầu tư trong nước là 529,79 tỷ đồng [Phụ lục 11]. Với quy mô số vốn trung bình còn nhỏ, ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu ngành nghề trong các KKTVB. Theo đó, với quy mô vốn nhỏ thì khó có thể đầu tư vào được những ngành có tính chất động lực đòi hỏi quy mô vốn lớn và những ngành đòi hỏi trình độ khoa học công nghệ hiện đại. Từ đó, ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu thành lập các KKTVB đã xác định. Trong khi đó, tính luỹ kế đến năm 20020 KKTVB vùng ven biển phía Bắc
thu hút được 230.177,60 tỷ
đồng vốn đầu tư
trong nước, số
vốn trung
bình trên một dự
án đầu tư
trong nước là 671,07 tỷ
đồng; KKTVB vùng
DHTB thu hút được 136.617,32 tỷ đồng, số vốn trung bình trên một dự án
đầu tư
trong nước là 245,27 tỷ
đồng; KKTVB vùng TNB thu hút được
960.459,23 tỷ đồng, số vốn trung bình trên một dự án đầu tư trong nước là 2.501,11 tỷ đồng [Phụ lục 20].
3.1.2.2. Chất lượng khu kinh tế ven biển ở các tỉnh Bắc Trung Bộ một số mặt còn hạn chế
Thứ nhất, số dự án có trình độ và năng lực công nghệ sản xuất trung bình và lạc hậu còn nhiều so với một số KKTVB của cả nước.
Đối với các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh.
Theo số liệu (Bảng 3.5) cho thấy, tính luỹ kế năm 2020 KKTVB các tỉnh BTB thu hút được 670 dự án đầu tư sản xuất kinh doanh, trong đó có 241 dự án có trình độ và năng lực công nghệ sản xuất trung bình chiếm 35,9% tổng số dự án đầu tư và 5 dự án có trình độ và năng lực công nghệ sản xuất lạc hậu chiếm 0,74% tổng số dự án. Nhìn chung các dự án đầu tư sản xuất
kinh doanh trong KKTVB
ở các tỉnh BTB sử dụng
công nghệ tiên tiến và
trung bình tiên tiến chiếm tỷ lệ
lớn trong các dự
án đầu tư
sản xuất kinh
doanh; tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp có trình độ và năng lực công nghệ sản xuất trung bình và lạc hậu vẫn còn nhiều, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và khả năng cạnh tranh của KKTVB ở các tỉnh BTB; làm ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường và mục tiêu phát triển bền vững trong KKTVB ở các tỉnh BTB. Trong khi đó, tính luỹ kế đến năm 2020, KKTVB vùng DHTB thu hút được 671 dự án trong đó có 218 dự án có trình độ và năng lực công nghệ sản xuất trung bình chiếm 32,4% tổng số dự án đầu tư và 5
dự án có trình độ
và năng lực
công nghệ sản xuất
lạc hậu chiếm 0,74%
tổng số dự án đầu tư [Phụ lục 23].
Đối với các dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật, xã hội.
Theo số
liệu
(Bảng 3.6) cho thấy,
năm 2020 KKTVB
ở các tỉnh
BTB thu hút được 86 dự
án đầu tư, trong đó có 26 dự
án có
trình độ và
năng lực công nghệ sản xuất trung bình chiếm 30,2%, và 04 dự án có trình
độ và năng lực công nghệ sản xuất
lạc hậu chiếm 4,6% tổng số dự
án.
Cùng thời trên, KKTVB vùng ven biển phía Bắc thu hút được 28 dự án,
trong đó có 7 dự án có trình độ và năng lực công nghệ sản xuất trung bình chiếm 25% tổng số dự án và 01 dự án trình độ công nghệ và năng lực sản xuất lạc hậu chiếm 3,5% [Phụ lục 24]. Như vậy, với số lượng 30 dự án có trình độ và năng lực công nghệ sản xuất trung bình và lạc hậu chiếm
34,8% tổng số dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật, xã hội trong KKTVB ở các
tỉnh BTB chủ yếu là các dự
án phát triển hạ
tầng giao thông; xử
lý rác,
nước thải công nghiệp. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự cố môi trường biển ở các tỉnh BTB vào năm 2016, nó cũng là một vấn đề lớn đặt ra cần giải quyết trong phát triển KKTVB ở các tỉnh BTB trong thời gian tới.
Thứ hai, lao động phổ thông, chưa qua đào tạo trong KKTVB ở các tỉnh BTB còn cao so với một số KKTVB của cả nước.
Theo số liệu (Bảng 3.4) ta thấy, lao động phổ thông trong KKTVB ở
các tỉnh BTB chiếm tỷ lệ còn cao. Tính luỹ kế
đến năm 2020 tổng số
lao
động thu hút vào KKTVB ở các tỉnh BTB là 64.645 lao động, trong đó lao
động phổ
thông là 17.416 lao động chiếm 26,9% tổng số
lao động trong
KKTVB ở các tỉnh BTB. Với số lượng lao động phổ thông còn chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng số lao động trong KKTVB ở các tỉnh BTB, đây cũng là
nguồn lực
ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả
hoạt động của
KKTVB; làm cho quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh theo hướng hiện đại diễn ra chậm hơn; khó khăn trong việc tiếp nhận và chuyển giao khoa học công nghệ, nhất là những công nghệ hiện đại.
Trong khi đó, tính luỹ kế đến năm 2020, KKTVB vùng TNB thu hút được
10.692 lao động, trong đó số
lao động phổ
thông là 2.186 lao động chiếm
20,4% tổng số lao động [Phụ lục 19]. Như vậy, với tỷ lệ lao động phổ thông còn lớn hơn một số KKTVB khác của cả nước, đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới việc tạo ra giá trị và hiệu quả hoạt động của các dự án đầu tư trong KKTVB ở các tỉnh BTB thời gian qua.
3.1.2.3. Cơ cấu khu kinh tế ven biển ở các tỉnh Bắc Trung Bộ còn một số nội dung chưa phù hợp
Thứ
nhất,
cơ cấu ngành nghề trong KKTVB
ở các tỉnh BTB theo
hướng hiện đại còn chiếm tỷ lệ nước.
thấp hơn so với một số
KKTVB của cả
Theo số liệu thống kê cho thấy, tính luỹ kế đến năm 2020 cơ cấu ngành nghề (khu chức năng) trong KKTVB ở các tỉnh BTB nói riêng và cả
nước nói chung được phân thành 4 nhóm ngành cơ bản là: công nghiệp,
dịch vụ, hạ
tầng KKT và nhóm ngành khác. Đối với KKTVB
ở các tỉnh
BTB năm 2020 có tổng số 756 dự án đầu tư thuộc 04 nhóm ngành, trong đó nhóm ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm 85,7% tổng số dự án. Trong khi đó, cùng thời điểm tính luỹ kế đến năm 2020 KKTVB vùng ven biển phía Bắc có 556 dự án, trong đó có 91,9% tổng số dự án thuộc nhóm ngành
công nghiệp và dịch vụ; KKTVB vùng DHTB có 727 dự án, trong đó có
88,9% tổng số dự án thuộc nhóm ngành công nghiệp và dịch vụ [Phụ lục
26]. Như
vậy, về
cơ cấu ngành nghề
phân theo 04 nhóm ngành thì
KKTVB ở các tỉnh BTB thì nhóm ngành công nghiệp và dịch vụ có tỷ lệ phần trăm trên tổng số dự án đầu tư thấp hơn so với KKTVB của một số vùng trên cả nước.
Về giá trị sản xuất công nghiệp trong KKTVB ở các tỉnh BTB năm
2020 mặc dù có giá trị cao đứng đầu so với KKTVB của các vùng khác
trong nước. Tuy nhiên, giá trị
đạt được chỉ
tập trung chủ
yếu vào KKT
Nghi Sơn (tỉnh Thanh Hoá), KKT Vũng Áng (tỉnh Hà Tĩnh), KKT Đông
Nam Nghệ An (tỉnh Nghệ An); giá trị sản xuất công nghiệp tạo ra chưa
tương xứng với tiềm năng và những ưu đãi mà KKTVB đang được hưởng
từ chính sách của Chính phủ và các địa phương. Mặc dù KKTVB được
quy hoạch phát triển trở thành những KKT đa ngành với cơ cấu ngành nghề đa dạng, tiến bộ và hiện đại, thông qua phát triển các khu chức năng nhằm tạo ra giá trị gia tăng dựa vào các ngành công nghiệp, dịch vụ, thương mại là
chủ yếu. Tuy nhiên, theo số liệu từ (Hình 3.2) cho thấy cơ cấu ngành nghề có sự chuyển dịch và hoàn thiện thông qua tỷ lệ lấp đầy KKTVB còn thấp, bình quân tỷ lệ lấp đầy KKTVB chỉ đạt 37,8% mà chủ yếu diện tích được lấp đầy ở KCN trong KKTVB và khu phi thuế quan; khu cảng biển, còn các khu vực khác đang trong quá trình tổ chức xây dựng và kêu gọi đầu tư, nhưng diễn ra còn chậm. Bên cạnh đó, trình độ công nghệ và năng lực sản xuất trong các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật, xã hội trong KKTVB ở các tỉnh BTB hiện nay những dự án đầu tư có trình độ công nghệ và năng lực sản xuất trung bình còn chiếm tỷ lệ cao, đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn dến chất lượng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành còn chậm và chất lượng chưa cao trong KKTVB ở các tỉnh TBT trong thời gian qua (Bảng 3.5; 3.6).
Thứ hai, phân bố KKTVB ở các tỉnh BTB còn dàn trải, thiếu trọng tâm, lãng phí đất đai so với các KKTVB khác của cả nước.
Theo số liệu Vụ Quản lý KKT, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính luỹ kế đến năm 2020 cả nước có 19 KKTVB được thành lập và hoạt động, trong đó 06 tỉnh BTB có KKTVB được thành lập và đi vào hoạt động chiếm 31,5% tổng số KKTVB của cả nước, mỗi tỉnh đều có một KKTVB hoạt động. Trong khi đó, tính luỹ kế đến năm 2020, vùng ven biển phía Bắc chỉ có 04 KKTVB được
quy hoạch và thành lập chiếm 22,2% tổng số KKTVB; vùng DHTB có 05
KKTVB được quy hoạch và thành lập chiếm 27,8% tổng số KKTVB; vùng TNB có 03 KKTVB được quy hoạch và thành lập chiếm 16,7% tổng số KKTVB cả nước [Phụ lục 5].
Mặt khác, 06 KKTVB tập trung ở 06 tỉnh, phân bố, quy hoạch quá
gần nhau về mặt không gian địa lý, thời gian thành lập như: KKT Nghi Sơn (Thanh Hóa) với Cụm công nghiệp Bắc Nghệ An (Nghệ An) là gần nhau,
được gọi là vùng kinh tế Nam Thanh Bắc Nghệ và cũng có những đặc
điểm đầu tư gần giống nhau. KKT Vũng Áng (Hà Tĩnh) và KKT Hòn La (Quảng Bình) cách nhau bởi đèo Ngang về đường bộ, nhưng ở đường biển
chỉ cách nhau có mũi Độc; KKT Chân Mây Lăng Cô (tỉnh Thừa Thiên
Huế) và KCN Liên Chiểu (Đà Nẵng) cũng chỉ cách nhau bởi mũi Sơn Trà
và hòn Sơn Trà. Đầu tư
dàn trải thiếu hiệu quả
trong đầu tư
xây dựng
cảng. Các cảng biển miền Trung phân bổ đều khắp các tỉnh từ Bắc xuống Nam, song hiện mới khai thác được 50 60% công suất. Dọc bờ biển Miền Trung hiện có khoảng 38 địa điểm cảng và cầu cảng; trong đó, các tỉnh
BTB có 15 địa điểm, các tỉnh DHTB có 23 địa điểm. Như vậy, KKTVB
phân bổ dàn trải, thiếu trọng tâm dẫn đến tình trạng mạnh ai, mạnh địa
phương nào địa phương đó làm, thậm chí còn cạnh tranh nhau trong thu hút các dự án đầu tư, phân bố khu chức năng còn giống nhau… dẫn đến hiệu quả thu hút đầu tư và hiệu quả mang lại từ các KKT còn thấp, tỷ lệ lấp đầy diện tích KKTVB ở các tỉnh BTB bình quân vào khoảng 37,8%, so với tổng diện tích quy hoạch. Tình trạng các dự án chậm triển khai, (dự án ma) vẫn tồn tại; một số dự án của KCN nằm trong KKTVB đất để hoang còn nhiều gây lãng phí đất đai. Do vậy, cần có giải pháp thích hợp để khai thác hiệu quả các nguồn lực trong KKTVB ở các tỉnh BTB trong thời gian tới, là
bài toán và vấn đề cấp bách cần làm ngay đối với Chính phủ, các địa
phương và các cơ quan quản lý liên quan đến hoạt động KKTVB cả nước nói chung và các tỉnh BTB nói riêng.
Thứ ba, tỷ trọng tham gia của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn thấp.
Những năm gần đây Đảng, Nhà nước Việt Nam thực hiện nhất
quán cơ
cấu kinh tế
nhiều thành phần trong nền kinh tế
thị
trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó, khẳng định “kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân có vai trò lớn trong huy động nguồn vốn đầu tư, công nghệ, phương thức quản lý hiện đại, mở rộng thị trường xuất khẩu” [18, tr. 130]. Trên cơ sở
quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng, những năm qua các thành phần kinh tế ngoài nhà nước được khuyến khích phát triển trong KKTVB ở các tỉnh BTB.
Theo số liệu (Bảng 3.7) cho thấy, tính luỹ kế đến năm 2020 KKTVB ở các tỉnh BTB thu hút được 756 dự án đầu tư, trong đó có 199 dự án đầu tư nước ngoài chiếm 26,3% tổng số dự án đầu tư. Cùng thời điểm trên, KKTVB vùng ven biển phía Bắc thu hút được 556 dự án đầu tư, trong đó có 206 dự án đầu tư nước ngoài chiếm 37% tổng số dự án đầu tư [Phụ lục 25]. Xét tuyệt
đối thì KKTVB có số
lượng dự
án đầu tư
nước ngoài cao chỉ
sau các
KKTVVB vùng ven biển phía Bắc. Tuy nhiên, so với tổng số dự án đầu tư trong KKTVB ở các tỉnh BTB còn chiếm tỷ lệ thấp trong cơ cấu đầu tư phân theo thành phần kinh tế. Đây cũng là một trong những hạn chế lớn trong phát triển KKTVB ở các tỉnh BTB hiện nay. Bởi theo mục tiêu phát triển KKTVB là động lực thu hút các dự án đầu tư nước ngoài, nhưng theo số liệu thống kê cho thấy số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng chậm hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác trong KKTVB ở các tỉnh BTB.
2.2.2.4. Đóng góp của các khu kinh tế ven biển đối với sự phát triển kinh tế xã hội chưa tưa xứng với tiềm năng hiện có, một số dự án trong các KKTVB còn ảnh hưởng đến môi trường và quốc phòng an ninh ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
Thứ nhất, lao động thu hút vào với một số KKTVB của cả nước.
KKTVB ở các tỉnh BTB
còn thấp so
Theo số
liệu (Bảng 3.1); (Bảng 3.9) cho thấy, tính luỹ kế
đến năm
2020 KKTVB ở các tỉnh BTB được thành lập và điều chỉnh quy hoạch theo quyết định của Chính phủ với tổng diện tích (210.637 ha) chiếm 24,5% tổng
diện tích KKTVB của cả nước. Tuy nhiên, số lao động thu hút vào trong
KKTVB còn hạn chế chưa tương xứng với tiềm năng và số lượng lao động thấp hơn so với một số KKTVB khác của cả nước, trong khi đó tính đến
năm 2020 các tỉnh BTB có 6.440,85 lao động từ
15 tuổi trở
lên, trong đó
KKTVB thu hút và giải quyết việc làm cho 64.645 lao động, chiếm 10% tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên ở các tỉnh BTB và chiếm 24,1% tổng số lao động trong KKTVB của cả nước [Phụ lục 12]. Trong khi đó, tính luỹ kế
đến năm 2020, KKTVB vùng ven biển phía Bắc thu hút được 107.325 lao
động chiếm 40,1% tổng số lao động trong KKTVB của cả nước; KKTVB vùng DHTB là 84.824 lao động chiếm 31,7% tổng số lao động trong KKTVB của cả nước. Mặc dù, các KKTVB ở các tỉnh BTB chiếm 37,8%, tổng diện tích KKTVB của cả nước nhưng số lao động chỉ chiếm 24,1% tổng số lao động, số lao động thu hút vào trong KKTVB ở các tỉnh BTB thấp hơn các KKTVB vùng ven biển phía Bắc và DHTB.
Bảng 3.9: Lao động trong khu kinh tế ven biển ở các tỉnh Bắc Trung Bộ giai đoạn 20152020
Đơn vị tính: Người
Lao động làm việc trong KKTVB | |||||
Tổng số | Trong đó | ||||
Nam | Nữ | Trong nước | Nước ngoài | ||
2015 | 37.009 | 21.250 | 15.759 | 33.193 | 3.816 |
2016 | 41.246 | 23.030 | 18.216 | 37.492 | 3.754 |
2017 | 44.482 | 24.633 | 19.849 | 40.886 | 3.596 |
2018 | 48.488 | 26.940 | 21.548 | 45.239 | 3.249 |
2019 | 57.606 | 29.677 | 27.929 | 53.182 | 4.424 |
2020 | 64.645 | 33.948 | 30.697 | 60.137 | 4.508 |
Có thể bạn quan tâm!
- Ưu Điểm Của Khu Kinh Tế Ven Biển Ở Các Tỉnh Bắc Trung Bộ
- Trình Độ Và Năng Lực Công Nghệ Sản Xuất Của Các Dự Án Đầu Tư Sản Xuất Kinh Doanh Trong Kktvb Ở Các Tỉnh Btb Giai Đoạn 20152020
- Giá Trị Sản Xuất Công Nghiệp Trong Khu Kinh Tế Ven Biển
- Cán Cân Xuất, Nhập Khẩu Của Kktvb Ở Btb So Với Kktvb Cả Nước Giai Đoạn 20152020
- Những Vấn Đề Đặt Ra Cần Giải Quyết Từ Thực Trạng Khu Kinh Tế Ven Biển Ở Các Tỉnh Bắc Trung Bộ
- Mâu Thuẫn Giữa Lợi Ích Kinh Tế Đơn Thuần Của Các Nhà Đầu Tư Trong Khu Kinh Tế Ven Biển Với Lợi Ích Chung Của Xã Hội Trong Phát Triển Bền Vững Khu
Xem toàn bộ 248 trang tài liệu này.
Nguồn: [81], [82], [83], [84], [85], [86], [90]
Mặc khác, tỷ lệ % trên tổng số lao động nằm trong độ tuổi lao động
ở các tỉnh BTB còn thấp, thực tế cho thấy những năm qua, KKTVB ở các
tỉnh
BTB được Chính phủ
và các địa phương tập trung đầu tư, phát triển
nhưng trải qua 15 năm từ khi KKT đầu tiên được thành lập năm 2006 KKT Chân MâyLăng Cô (tỉnh Thừa Thiên Huế) đến nay việc thu hút lao động vào KKTVB còn thấp, qua số liệu thống kê việc thu hút lao động vào KKTVB ở