các tỉnh BTB chủ yếu ở KCN (KCN nằm trong KKT); khu cảng biển; khu phi thuế quan là chủ yếu.
Thứ hai, cán cân xuất, nhập khẩu trong KKTVB ở các tỉnh BTB còn mất cân đối so với một số KKTVB của cả nước.
Theo số liệu (Bảng 3.10) cho thấy, tính luỹ kế đến năm 2020 KKTVB
ở các tỉnh BTB có giá trị nhập khẩu là 3.510,28 triệu USD chiếm 40,2% tổng
giá trị
nhập khẩu KKTVB của cả
nước, nhưng giá trị
xuất khẩu chỉ
đạt
1.683,62 triệu USD chiếm 12,8% tổng giá trị xuất khẩu KKTVB của cả
nước. Như vậy, có thể thấy cán cân xuất nhập khẩu trong KKTVB ở các tỉnh BTB còn mất cân đối so với một số KKTVB khác của cả nước, trong đó giá trị nhập khẩu lớn, giá trị xuất khẩu nhỏ trong tổng giá trị nhập khẩu, xuất khẩu KKTVB của cả nước.
Bảng 3.10: Cán cân xuất, nhập khẩu của KKTVB ở BTB so với KKTVB cả nước giai đoạn 20152020
Đơn vị tính: Triệu USD
Giá trị xuất, nhập khẩu trong KKTVB | ||||
Nhập khẩu (Triệu USD) | Xuất khẩu (Triệu USD) | |||
KTTVB cả nước | KTTVB các tỉnh BTB | KTTVB cả nước | KKTVB các tỉnh BTB | |
2015 | 8.654,30 | 3.197,17 | 6.501,46 | 732,82 |
2016 | 9.452,47 | 3.425,21 | 7.266,30 | 867,41 |
2017 | 11.545,12 | 4.616,12 | 8.609,90 | 870,26 |
2018 | 8.558,32 | 3.226,63 | 12.343,16 | 1.274,91 |
2019 | 11.302,68 | 4.887,67 | 16.224,86 | 1.944,36 |
2020 | 8.717,42 | 3.510,28 | 13.147,54 | 1.683,62 |
Có thể bạn quan tâm!
- Trình Độ Và Năng Lực Công Nghệ Sản Xuất Của Các Dự Án Đầu Tư Sản Xuất Kinh Doanh Trong Kktvb Ở Các Tỉnh Btb Giai Đoạn 20152020
- Giá Trị Sản Xuất Công Nghiệp Trong Khu Kinh Tế Ven Biển
- Chất Lượng Khu Kinh Tế Ven Biển Ở Các Tỉnh Bắc Trung Bộ Một Số Mặt Còn Hạn Chế
- Những Vấn Đề Đặt Ra Cần Giải Quyết Từ Thực Trạng Khu Kinh Tế Ven Biển Ở Các Tỉnh Bắc Trung Bộ
- Mâu Thuẫn Giữa Lợi Ích Kinh Tế Đơn Thuần Của Các Nhà Đầu Tư Trong Khu Kinh Tế Ven Biển Với Lợi Ích Chung Của Xã Hội Trong Phát Triển Bền Vững Khu
- Phát Triển Khu Kinh Tế Ven Biển Phải Theo Hướng Bền Vững
Xem toàn bộ 248 trang tài liệu này.
Nguồn: [81], [82], [83], [84], [85], [86], [90]
Trong khi đó, tính luỹ kế đến năm 2020, KKTVB vùng ven biển phía Bắc giá trị xuất khẩu đạt 5.439,54 triệu USD chiếm 41,3% tổng giá trị xuất khẩu KKTVB của cả nước; KKTVB vùng DHTB giá trị nhập khẩu là 649,84
triệu USD, chiếm 7,4% giá trị nhập khẩu KKTVB của cả nước và giá trị
xuất khẩu đạt 6.017,45 triệu USD, chiếm 45,7% tổng giá trị xuất khẩu
KKTVB của cả nước; KKTVB vùng TNB giá trị nhập khẩu là 191,02 triệu
USD, chiếm 2,1% giá trị
nhập khẩu KKTVB của cả
nước và giá trị
xuất
khẩu đạt 6,93 triệu USD, chiếm 0,05% tổng giá trị xuất khẩu KKTVB của cả nước [Phụ lục 17].
Với cán cân xuất, nhập khẩu còn mất cân đối ở KKTVB các tỉnh BTB góp phần làm cho cán cân thương mại của các tỉnh BTB cũng như cả nước mất cân đối, nếu tình trạng này còn kéo dài sẽ ảnh hưởng đến quá trình phát
triển KTXH của các địa phương cũng như chính sách tiền tệ của quốc gia.
Thứ
ba,
một số dự
án đầu tư
trong
khu kinh tế
ven biển
còn
ảnh
hưởng đến môi trường và quốc phòng, an ninh.
Mục tiêu phát triển KKTVB ở Việt Nam nói chung và các tỉnh BTB nói riêng nhằm đưa KKTVB hướng tới phát triển KKT đa ngành với giá trị kinh tế lớn. Bên cạnh đó, KKTVB ở các tỉnh BTB nằm ở những vị trí thuận lợi gần sân bay, cảng biển, hệ thống kết nối giao thông thuận lợi, đa phần diện tích các KKT nằm sát mặt biển, nằm ở những nơi có vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh. Thực tế những năm qua cho thấy, trong quá trình quy hoạch, phát triển KKTVB, mỗi chủ thể theo đuổi một mục đích khác nhau và có lợi ích riêng. Trong đó, lợi nhuận là mục tiêu được các nhà đầu tư quan tâm khi triển khai các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, đầu tư hạ tầng kỹ thuật, xã hội trong KKTVB. Do vậy, một số dự án trong KKTVB chưa gắn chặt giữa phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường và củng cố quốc phòng, an ninh. Mặt khác, thực trạng hiện nay cho thấy tỷ lệ các dự án sử dụng công nghệ trung bình và lạc hậu trong KKTVB hiện nay chiếm khoảng 50% tổng số các dự án (Bảng 3.5; 3.6). Chính điều này, làm cho môi trường, sinh thái biển bị đe dọa, nhất là nước thải, chất thải công nghiệp từ các KCN trong KKT, cá biệt một số doanh nghiệp trong dự án Fomosa (Hà Tĩnh)
xả thải trực tiếp nước thải công nghiệp ra biển đã gây ra sự cố môi trường biển cho các tỉnh BTB năm 2016.
Về mặt quốc phòng, an ninh hiện nay KKT Vũng Áng (tỉnh Hà Tĩnh) các dự án đầu tư nước ngoài ở đây nằm ở vị trí trọng yếu về quốc phòng, dễ chia cắt, dự án Fomosa nằm ngay cạnh cụm cảng nước sâu Sơn Dương
Vũng Áng; tổng kho dầu khí Vũng Áng; tổng kho khí hóa lỏng BTB đây là những vị trí nhạy cảm vì nằm đối diện với căn cứ tàu ngầm Tam Á (Đảo Hải Nam) cách hơn 200 hải lý. Nhiều dự án liên doanh, dự án đầu tư nước ngoài nằm ở vị trí trọng yếu về quốc phòng như dự án Worlshine trên Mũi Cửa Khẻm đèo Hải Vân (đã buộc dừng dự án); dự án khu nghỉ dưỡng Bãi Chuối, thuộc khu vực đèo Hải Vân và khu nghỉ dưỡng nằm ở thị trấn Lăng Cô và xã Lộc Vĩnh cách cảng nước sâu Chân Mây 4km vị trí thuận tiện cho tàu trọng tải hàng trăm ngàn tấn cập cảng. Công ty liên doanh Tân Việt Trung hiện diện trong KTT Đông Nam Nghệ An (tỉnh Nghệ An) sát cảng Cửa Lò và khu A2 dành cho quốc phòng trên vùng biển đảo Ngư, đảo Mắt. Những sơ hở về quy hoạch và cấp phép đầu tư trong KKTVB ở các tỉnh BTB kể trên cho thấy, trong quy hoạch phát triển KKTVB ở các tỉnh BTB một số nơi mới chỉ chú trọng lợi ích kinh tế mà “chưa quan tâm đến bảo vệ các địa hình có giá trị tác chiến phòng thủ chiến dịch, chiến lược, chưa gắn với kế hoạch xây dựng khu vực phòng thủ” [8, tr.111].
3.2. Nguyên nhân ưu điểm, hạn chế và những vấn đề đặt ra cần giải quyết từ thực trạng khu kinh tế ven biển ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
3.2.1. Nguyên nhân ưu điểm, hạn chế của khu kinh tế ven biển ở
các tỉnh Bắc Trung Bộ
3.2.1.1. Nguyên nhân ưu điểm
* Nguyên nhân khách quan
Một là, Đảng, Nhà nước ban hành nhiều nghị quyết, quyết định đúng đắn về kinh tế biển nói chung và khu kinh tế ven biển nói riêng.
Việt Nam là quốc gia có lợi thế từ biển, với nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, nhiều loại có trữ lượng lớn như: hải sản, khoáng sản, dầu khí, khí đốt... ; với nhiều bãi tắm đẹp, hệ thống vịnh và đảo thuận lợi cho phát triển du lịch; nằm trên hệ thống giao thông đường biển có hoạt động nhộn nhịp nhất thế giới thuận lợi cho phát triển các ngành hậu cần KTB; vận tải; cảng biển... Để phát huy được những lợi thế trên đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn. Do vậy Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, quyết định đúng đắn về KTB nói chung và KKTVB nói riêng. Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII năm 1997 Đảng ta đã đề ra chủ trương nghiên cứu xây dựng thí điểm một vài KKT, khu mậu dịch tự do ở những địa bàn ven biển có đủ điều kiện; Nghị quyết Trung ương 4 Khóa VIII; Nghị quyết số 09NQ/TW ngày 09/02/2007, Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X; Nghị quyết số 36NQ/TW ngày 22/10/2018. Như vậy, với những chủ trương,
đường lối, chính sách về KTB nói chung KKTVB nói riêng những năm qua
KKTVB Việt Nam và KKTVB ở các tỉnh BTB ngày càng có những đóng góp quan trọng vào phát triển KTXH các địa phương. Đây chính là nguyên nhân khách quan chính tạo nên những ưu điểm của KKTVB ở các tỉnh BTB trong thời gian qua.
Hai là, thể chế, cơ chế, chính sách về khu kinh tế ven biển ngày càng thông thoáng và đồng bộ.
Thể
chế, cơ
chế, chính sách là một trong những nguyên nhân
ảnh
hưởng trực tiếp đến quá trình quy hoạch, quy mô, chất lượng KKTVB ở các tỉnh BTB. Hiện nay KKTVB ở các tỉnh BTB hoạt động theo sự quản lý tập
trung thống nhất được phân công theo chức năng nhiệm vụ từ Chính phủ
đến các Bộ, Ban, Ngành và các địa phương và thực hiện theo các cơ chế,
chính sách áp dụng chung cho KKTVB trên cả nước. Những năm qua Chính
phủ, ban hành các
Quyết định số
1353/QĐTTg ngày 23/9/2008 về
Quy
hoạch phát triển các KKTVB ở Việt Nam đến năm 2020; Quyết định số
126/2009/QĐTTg ngày 26/10/2009 Ban hành cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách
trung
ương đối với đầu tư
phát triển hệ
thống kết cấu hạ tầng KKTVB;
Quyết định số: 203/QĐTTg, ngày 06 tháng 02 năm 2020 về việc thành lập Ủy ban chỉ đạo quốc gia về thực hiện Chiến lược phát triển bền vững KTB Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Quyết định số: 647/QĐ TTg, ngày 18 tháng 5 năm 2020 về việc phê duyệt đề án hợp tác quốc tế về phát triển bền vững KTB Việt Nam đến năm 2030. Bên cạnh đó, Quốc hội ban hành các luật Đầu tư, luật Doanh nghiệp, luật Đất đai, luật thuế Doanh nghiệp; luật thuế Thu nhập và pháp luật chuyên ngành về đất đai, thương mại, lao động, xây dựng, thuế và một số pháp luật khác có liên quan. Cùng với đó, các cơ quan quản lý nhà nước ban hành nhiều cơ chế, chính sách đi cùng với quá trình cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo môi trường pháp lý thông thoáng, thuận lợi tạo mọi điều kiện cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào KKTVB. Với hệ thống cơ chế, chính sách ngày càng thông thoáng, đồng bộ và minh bạch là nguyên nhân chủ yếu để KKTVB phát huy được thế mạnh, tiềm năng của mình ngày càng khẳng định được vai trò quan trọng trong Chiến lược phát triển bền vững KTB Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và những năm tiếp theo.
Ba là, sự phát triển của khoa học công nghệ, hợp tác quốc tế về kinh tế biển ngày càng sâu rộng.
Sự phát triển khoa học, công nghệ và hợp tác quốc tế về kinh tế biển
là nguyên nhân thúc đẩy các ngành KTB nói chung, và ngành nghề trong
KKTVB phát triển đa dạng, theo hướng các ngành nghề thuộc nhóm ngành
công nghiệp và dịch vụ
chiếm tỷ lệ
cao trong cơ
cấu ngành nghề
trong
KKTVB; trình độ công nghệ và năng lực sản xuất ngày càng tăng. Thực tế
cho thấy, nhờ
vào sự
phát triển của khoa học công nghệ
những năm qua
KKTVB của cả nước nói chung và các tỉnh BTB nói riêng thu hút được
nhiều dự án đầu tư có trình độ công nghệ và năng lực sản xuất tiên tiến, trung bình tiên tiến; giá trị sản phẩm tạo ra từ KKTVB chứa hàm lượng tri
thức ngày càng cao. Mặt khác, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng giúp Việt Nam khai thác được những nguồn lực từ bên ngoài như: vốn, khoa học công nghệ, chuyên gia có kinh nghiệm về biển. Từ đó, thúc đẩy KTB Việt Nam nói chung và KKTVB nói riêng, đặc biệt những lĩnh vực, ngành KTB mà Việt Nam có thế mạnh như: khai thác, chế biến dầu khí; công nghiệp ven biển; du lịch biển; dịch vụ hậu cần KTB; cảng biển... Qua đó, góp phần từng bước thực hiện hóa mục tiêu về chiến lược phát triển bền vững KTB Việt Nam.
* Nguyên nhân chủ quan
Một là, nhận thức của cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương ở các tỉnh Bắc Trung Bộ về vị trí, vai trò của khu kinh tế ven biển không ngừng được nâng lên.
Trên cơ sở quán triệt, triển khai hiệu quả đường lối, quan điểm chính sách của Đảng, Nhà nước về KTB nói chung và KKTVB nói riêng trong thời gian qua ở các tỉnh BTB. Từ đó, làm cho nhận thức của cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương về vị trí, vai trò của các KKTVB không ngừng được nâng lên. Khi nhận thức được nâng lên, sẽ tạo ra sự thống nhất trong tổ chức triển khai, đường lối quan điểm của Đảng, cơ chế, chính sách của Nhà nước liên quan đến KKTVB một cách nhanh chóng và hiệu quả của Cấp ủy, Chính quyền địa phương. Đồng thời, khi nhân dân các tỉnh BTB nhận thức được vị trí, vai trò của KKTVB đối với sự phát triển KTXH; giải quyết việc làm; thu hút đầu tư... Đặc biệt, đối với những người dân trong diện bị giải tỏa, di dời liên quan đến các dự án trong KKTVB ở các địa phương, từ đó ủng hộ chính quyền địa phương và các nhà đầu tư trong thỏa thuận đền bù, giải tỏa và khu tái định cư của các dự án. Khi nhận thức của cấp ủy, chính quyền và nhân dân
địa phương về vị trí, vai trò của các KKTVB không ngừng được nâng lên,
chính là nguyên nhân thúc đẩy và đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hoàn thiện quy hoạch, triển khai dự án của KKTVB ở các tỉnh BTB trong thời gian qua.
Hai là, sự năng động sáng tạo, linh hoạt trong ban hành cơ chế, chính
sách của các tỉnh Bắc Trung Bộ đối với khu kinh tế ven biển.
Để đạt được những kết quả quan trọng của KKTVB ở các tỉnh BTB trong thời gian qua, một trong những nguyên nhân chủ quan đó chính là việc các tỉnh BTB đã chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong vận dụng cơ chế, chính sách của Trung ương, Bộ, Ngành áp dụng phù hợp với điều kiện thực tiễn, tiềm năng, thế mạnh của KKTVB sát với điều kiện, quy hoạch, kế hoạch phát triển KTXH của các địa phương. Từ đó, tạo sự thông thoáng về thủ tục hành chính, sự hấp dẫn của các ưu đãi đầu tư, cùng với sự hỗ trợ cho các doanh nghiệp về nguồn lao động phù hợp với lĩnh vực, sản xuất kinh doanh của từng dự án; tạo sự tin tưởng, yên tâm đầu tư, mở rộng quy mô đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước ở các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật, xã hội trong KKTVB ở các tỉnh BTB thời gian qua. Từ đó, góp phần tạo nên những ưu điểm vượt trội
KKTVB ở các tỉnh BTB trong thời gian qua về thu hút vốn đầu tư; nâng
cao trình độ nước.
công nghệ; thu hút lao động và đóng góp vào ngân sách nhà
Ba là, các tỉnh Bắc Trung Bộ đã quan tâm huy động được các nguồn lực cho khu kinh tế ven biển.
Những năm qua bên cạnh những nguồn vốn hỗ trợ của Chính phủ trong phát triển hạ tầng kỹ thuật, xã hội trong KKTVB ở các tỉnh BTB trong những năm qua, cấp ủy, chính quyền địa phương luôn quan tâm huy động mọi nguồn lực cho KKTVB, nhất là việc huy động các nguồn lực trong và ngoài nước tập trung đầu tư vào các dự án hạ tầng kỹ thuật, xã hội trong KKTVB. Bên cạnh đó, cấp ủy, chính quyền địa phương ở các tỉnh BTB đã sử dụng hợp lý, linh hoạt các nguồn lực trong và ngoài ngân sách để đầu tư đúng định hướng, đúng mục tiêu, nhằm tạo đòn bẩy góp phần phát huy lợi thế so sánh của địa phương. Các cơ quan chức năng ở các tỉnh BTB chủ động trong tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng để khai thác tốt nội lực và thu hút tối
đa ngoại lực cho đầu tư phát triển, nhằm tạo giá trị gia tăng mới cho KKTVB.
Bốn là, Ban Quản lý khu kinh tế ven biển các tỉnh Bắc Trung Bộ thực hiện tương đối tốt chức năng, nhiệm vụ được giao.
Ban quản lý KKTVB ở các tỉnh BTB là cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp đối với KKTVB; quản lý và tổ chức thực hiện chức năng cung ứng dịch vụ hành chính công và dịch vụ hỗ trợ khác có liên quan đến hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh cho nhà đầu tư trong khu công nghiệp, khu kinh tế. Trong những năm qua, các KKTVB ở các tỉnh BTB đạt được nhiều kết quả quan trọng trong thu hút các dự án đầu tư, chuyển giao khoa học công nghệ, thu hút lao động, đóng góp vào ngân sách nhà nước ở các địa phương, một trong những nguyên nhân để đạt được kết quả trên. Trước hết BQL KKTVB ở các tỉnh BTB đã tích cực, chủ động thực hiện tương đối tốt chức năng, nhiệm vụ được giao trong việc rà soát, tập trung khắc phục những hạn chế, yếu kém, khó khăn, vướng mắc trong quá trình xây dựng và hoạt động KKTVB nhất là những vướng mắc của các nhà đầu tư về thủ tục hành chính, thủ tục đầu tư, quản lý quy hoạch, môi trường,...; kịp thời báo cáo UBND các tỉnh cùng các cấp có thẩm quyền giải quyết dứt điểm những khó khăn vướng mắc liên quan đến mọi hoạt động của KKTVB; chủ động lập và hoàn chỉnh các quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết trong KKTVB bảo đảm chất lượng, khả thi, nhất là việc đề xuất mở rộng quy hoạch KKTVB cũng như mở rộng quy mô các dự án đầu tư; đề xuất nhiều biện pháp thích hợp với UBND các tỉnh cùng các Bộ, Ngành đẩy nhanh tiến độ và sớm hoàn thành các công trình hạ tầng trong trong KKTVB; làm tốt hoạt động xúc tiến, vận động, thu hút các dự án mới đầu tư, các dự án đã đầu tư tiếp tục mở rộng đầu tư tại trong các KKTVB, chú trọng các dự án quy mô lớn; tăng cường quản lý đầu tư cũng như phối hợp với các cấp ủy đảng, chính quyền của các huyện, thị xã, các tỉnh, các sở, ngành cấp tỉnh thực hiện tốt công tác giải phóng mặt bằng, quản lý quy hoạch, xây