Lao Động Trong Lĩnh Vực Du Lịch Của Phú Thọ Qua Đào Tạo Trong Giai Đoạn 2011 - 2019

phát triển các loại hình du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dư ng với các hoạt động du lịch như tham quan, leo núi, thám hiểm hang động, tìm hiểu văn hoá của đồng bào dân tộc thiểu số…

Khu du lịch khoáng nóng Thanh Thủy: Khu du lịch nước khoáng nóng Thanh Thủy là một trong những khu du lịch có nguồn suối khoáng nóng tự nhiên. Tính năng, tác dụng của khu vực nước khoáng này cùng với vị trí mỏ nằm ven sông Đà, tiếp giáp với Hà Nội, gần sát với khu di tích đá Chông cho phép có thể phát triển ở đây các loại hình du lịch nghỉ dư ng, chữa bệnh gắn với tham quan, nghiên cứu lịch sử…

Ao Giời - Suối Tiên (huyện Hạ Hòa): Suối bắt nguồn từ núi Nả, một ngọn núi cao nhất của huyện Hạ Hòa và có nhiều thác. Có những thác độ cao đến 20m tạo nên những cảnh quan rất hấp dẫn, có thác đổ xuống những vực nước sâu trong xanh, có thác lại đổ xuống những bãi cuội ngũ sắc lấp lánh tạo nên những vẻ đ p k ảo cho nơi đây. Có độ cao 1.000 - 1.200 m so với mặt biển, còn tồn tại nhiều động thực vật quý hiếm, sinh cảnh đ p.

Hang Lạng: Là hang lớn và dài nhất trong số hang động thạch nhũ ở Xuân Sơn, Thanh Sơn, Phú Thọ. Ðến với vùng Xuân Sơn, du khách không thể không đến hang Lạng, một k tích thiên nhiên làm say đắm bao lòng người. Hang Lạng ăn sâu trong lòng núi Ten, có cửa vào hang nhìn thẳng ra cánh đồng Mường Lạng.

Núi Thắm: Núi Thắm hay còn gọi là núi Đầu Rồng, có độ dài khoảng 4km chạy dọc lên khu du lịch Thanh Ba. Xung quanh núi Thắm là hàng trăm ngọn đồi thoai thoải nằm gần kề nhau, nhấp nhô như hình bát úp. Núi Thắm hiện vừa là một thắng cảnh đ p, vừa là một trung tâm kinh tế của vùng trung du Phú Thọ.

* Các tài nguyên du lịch nhân văn

Phú Thọ là vùng đất Tổ với lịch sử lâu đời nên Phú Thọ chứa đựng nhiều di tích lịch sử, văn hoá, di chỉ khảo cổ, kiến trúc nghệ thuật. Qua các cuộc tìm kiếm, khai quật khảo cổ cho thấy Phú Thọ có rất nhiều hiện vật đồ đá, đồ đồng minh chứng cho thời k các Vua Hùng dựng nước Văn Lang, trong đó có các di chỉ nổi tiếng như Gò Mun, Sơn Vi, Làng Cả, Phùng Nguyên, Đồng Đậu… Theo thống kê của UBND tỉnh Phú Thọ có tổng số 1.372 di tích, trong đó có 305 di tích đã được

xếp hạng (1 di tích quốc gia đặc biệt, 73 di tích quốc gia, 231 di tích cấp tỉnh). Trong đó một số di tích có giá trị và ý nghĩa văn hoá, du lịch cao như:

Khu di tích lịch sử Đền Hùng: Là điểm du lịch nổi tiếng nhất Phú Thọ tọa lạc tại xã Hy Cương, thành phố Việt Trì là nơi thờ cúng các Vua Hùng, thờ cúng Quốc Tổ Lạc Long Quân và Quốc Mẫu Âu Cơ. Đền được xây dựng vào thế kỷ 15, và tương truyền đây là nơi mà người con trưởng của Lạc Long Quân và Âu Cơ lên làm vua lấy hiệu Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang. Đền Hùng là một quần thể kiến trúc bao gồm đền Hạ và chùa, đền Giếng, đền Trung, đền Thượng và lăng vua Hùng. Đến với đền Hùng, du khách không chỉ được xem kiến trúc, thiết kế, nghệ thuật điêu khắc, mà còn cảm nhận được vẻ đ p của công trình hoành tráng ẩn mình dưới những cây cổ thụ to lớn… Khu di tích Đền Hùng đã được xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá đặc biệt cấp quốc gia. Đây là khu du lịch tâm linh đặc biệt trong hành trình về cội nguồn của người dân Việt Nam, là trung tâm thực hành tín ngư ng thờ cúng HùngVương ở Phú Thọ. Đền Hùng đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Đền Quốc mẫu Âu Cơ: Nằm trong khu di tích đền Hùng, mang nét thanh bình của một ngôi đền ẩn dưới một gốc đa cổ thụ, bên tả có giếng Loan, bên hữu lại có giếng Phượng, phía trước có núi Giác, còn sau lưng có sông Hồng uốn khúc. Đền được thiết kế dựa trên nền kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn tinh hoa văn hóa của thời k Đông Sơn.

Đền Lăng Sương: Tọa lạc tại xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thuỷ, là nơi thờ Đức Tản Viên Sơn Thánh. Đền được xây dựng quy mô từ thời Tiền Lê trên nền ngôi đền cổ có từ thời Thục An Dương Vương và đến nay đã qua một số lần trùng tu, sửa chữa, nhưng các hiện vật khẳng định niên đại được xây dựng và các bản ngọc phả, sắc phong của một số triều đại phong kiến Việt Nam vẫn còn được lưu giữ. Đặc biệt trong Đền còn lưu giữ được hòn đá cổ (đá qu ) có dấu chân tương truyền là của Đức Thánh Mẫu để lại khi sinh Tản Viên Sơn Thánh. Cùng với các di tích Đền Hùng và Đền Mẫu Âu Cơ, Đền Lăng Sương là một điểm đến quan trọng trong hành trình du lịch về nguồn của du khách.

Khu di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đền Hùng: Được xây dựng vào

năm 2001, tại Ngã năm Đền Giếng, dưới chân núi Nghĩa Lĩnh, với công trình chính là bức phù điêu có hình tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với cán bộ, chiến sỹ Đại đoàn quân Tiên phong. Công trình có quy mô lớn ở vị trí trang trọng trong quần thể di tích lịch sử Đền Hùng.

Khu di tích khảo cổ Làng Cả: Khu di tích thuộc địa phận thành phố Việt Trì. Trong khu vực khảo cổ còn giữ lại những dấu tích nổi bật về cố đô Văn Lang xưa, góp phần minh chứng cho thời k dựng nước và sự tồn tại của một kinh đô của nhà nước sơ khai thời Hùng Vương.

Ngoài ra tỉnh Phú Thọ còn có rất nhiều chùa, đình, miếu mang nghệ thuật kiến trúc cổ từ những niên đại xa xưa của Việt Nam.

Các lễ hội truyền thống: Phú Thọ là vùng đất cổ gắn với truyền thuyết và lịch sử hình thành Nhà nước đầu tiên của dân tộc, ngoài những lễ hội có tính chất chung của cả nước, của vùng Bắc Bộ, Phú Thọ còn có khá nhiều lễ hội truyền thống rất cổ, mang nét đặc sắc riêng. Phú Thọ hiện có 260 lễ hội, trong đó có 228 lễ hội truyền thống, 32 lễ hội lịch sử - cách mạng; có 92 lễ hội được bảo lưu hoàn chỉnh, 30 lễ hội xếp loại A, 1 lễ hội cấp quốc gia. Có thể kể đến một số lễ hội tiêu biểu như: Lễ hội Đền Hùng, Lễ hội Đền Mẫu Âu Cơ, Lễ hội rước voi Đình Đào Xá, Lễ hội Phết Hiền Quan; bơi chải Bạch Hạc; hát Xoan Kim Đức - An Thái, Trò Trám Tứ Xã...

Làng nghề truyền thống: Ở Phú Thọ còn tồn tại và duy trì khá nhiều làng nghề cổ. Nét riêng có của các làng nghề ở Phú Thọ là sự lâu đời về lịch sử hình thành; đồng thời là sự độc đáo về chủng loại sản phẩm mang tính truyền thống và do nhiều làng vẫn giữ cách thức sản xuất sản phẩm nghề theo lối cổ truyền, ít bị pha tạp. Có những làng nghề mà sản phẩm của làng gắn với các truyền thuyết, những tích truyện xa xưa, từ thời Hùng Vương dựng nước như làng nghề bánh dày Mộ Chu Hạ

- Bạch Hạc; làng nghề mì miến Hùng Lô; làng nghề trồng dâu nuôi tằm Lâu Thượng; làng nghề trồng nếp thơm tiến vua Hương Trầm; làng trồng trầu không Dữu Lâu; làng nghề gói bánh chưng Minh Nông… Các làng nghề ở Phú Thọ nếu được khai thác, phát huy tốt có thể trở thành những điểm nhấn quan trọng trong các chương trình du lịch văn hoá, hành hương về cội nguồn dân tộc.

Các trò chơi, văn nghệ diễn xướng dân gian: Hầu hết các trò chơi dân gian đều

gắn với các di tích và huyền thoại từ thời k Hùng Vương như Bơi Chải ở Tam Giang, Bạch Hạc; Đu tiên ở Minh Nông; Kéo co ở Dữu Lâu; Chọi trâu ở Phù Ninh; Đánh phết ở Sơn Vi, Hiền Quan; Vật đuổi giải ở Cao Xá…

Văn nghệ, diễn xướng dân gian khá phong phú và đa dạng, với một số thể loại tiêu biểu cả cổ xưa và đương đại như: Hát Xoan, hát Gh o, hát Nhà tơ, hát Trống quân; hát Xường, hát Rang, hát Ví (dân tộc Mường); hát Ru, múa Sinh Tiền, múa Xuân Ngưu, múa M i, đâm Đuống, múa Chuông, múa Rùa (dân tộc Dao); truyện cười Văn Lang; thơ Bút Tre...

Ẩm thực, đặc sản: Phong tục và truyền thống ẩm thực, các món ăn ở Phú Thọ tương đối phong phú và đặc sắc, đã đi vào truyền thuyết, vào các câu chuyện dân gian như: Bánh chưng, bánh dày Bạch Hạc, Thậm Thình; bánh út, bánh nẳng Thanh Đình; xôi cọ Phù Ninh; xôi nếp gà gáy Yên Lập; xôi ngũ sắc, rêu đá Tân Sơn; thịt chua Thanh Sơn… Một số sản vật nổi tiếng và riêng có là hồng Hạc tiến vua, bưởi Đoan Hùng, cá Anh Vũ, cá Lăng, quýt Thượng…

c). Các yếu tố phát triển du lịch

- Hạ tầng giao thông

Hạ tầng giao thông tỉnh Phú Thọ gồm 3 loại hình đường giao thông: Đường bộ, đường sắt và đường thuỷ. Mạng lưới giao thông đường bộ gồm các tuyến đường Cao tốc, Quốc lộ, tỉnh lộ và các tuyến đường huyện, xã; tổng chiều dài hơn 12.648 km, trong đó có 1 tuyến đường cao tốc, 5 tuyến đường Quốc lộ, 39 tuyến đường tỉnh, trên 11.000 km đường huyện, xã và đường giao thông nông thôn. Các tuyến đường Quốc lộ đều mang tính huyết mạch, kết nối các trọng điểm kinh tế - xã hội của tỉnh. Tỷ lệ nhựa hóa các tuyến đường tỉnh đạt trên 94%. Các tuyến đường huyện lỵ, giao thông liên xã có tỷ lệ cứng hoá trên 82%; giao thông nông thôn cứng hoá trên 60%. Đường thủy gồm 3 tuyến giao thông lớn trên sông Hồng, sông Lô, sông Đà, với tổng chiều dài qua địa phận tỉnh là 226 km, ngoài ra còn có các sông nhánh khác như sông Bứa, sông Chảy... Các tuyến giao thông đã được phân bố xây dựng tương đối hợp lý.

Đầu tư nâng cấp hệ thống giao thông có ý nghĩa quan trọng, tạo điều kiện khai thác các tiềm năng của tỉnh cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung, trong đó có

phát triển du lịch.

- Hạ tầng thương mại, dịch vụ, công trình văn hóa thể thao

Các cơ sở thương mại, dịch vụ, từng bước phát triển. Một số trung tâm thương mại, siêu thị lớn được đầu tư khoảng 5 năm trở lại đây như Big C, Vincom, chuỗi siêu thị Aloha Mall; các công trình văn hóa, thể thao quy mô lớn như Quảng trường và bảo tàng Hùng Vương, Công viên Văn Lang, trục tuyến đường lễ hội trung tâm, khu liên hợp thể thao tỉnh, bể bơi, sân tenis. Các công trình tập trung nhiều ở thành phố Việt Trì, thị xã Phú Thọ và các thị trấn huyện lỵ, thiết chế văn hóa, thể thao ở nông thôn chủ yếu là thiết chế nhỏ phục vụ sinh hoạt cộng đồng.

Nhiều công trình văn hóa, thể thao được triển khai xây dựng như: Khu liên hợp thể thao rộng 50ha, đầu tư đồng bộ gồm nhà thi đấu, sân vận động, bể bơi hiện đại.Xây dựng Trung tâm tổ chức Hội chợ Hùng Vương trên đồi Mui Rùa, Hệ thống bảo tàng triển lãm chuyên đề, Khu bảo tàng ngoài trời tại Khu di tích khảo cổ Làng Cả, xây dựng Trung tâm nghệ thuật…Các công trình này được triển khai đi vào hoạt động góp phần nâng cao chất lượng hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.

- Nguồn nhân lực du lịch

Đội ngũ lao động đóng góp vai trò quan trọng nâng cao chất lượng các dịch vụ du lịch. Trong giai đoạn 2010 đến 2019, số lượng lao động trong lĩnh vực du lịch Phú Thọ gia tăng từ 1185 người năm 2010 lên 2921 người năm 2019. Trong số lượng lao động trình độ cao đẳng và trung cấp chiếm tỷ lệ cao nhất (trung bình 40,72%), tỷ lệ lao động có trình độ đại họctrung bình là 26,17%. Trong đó tỷ lệ lao động có trình độ đại học và trên đại học đã có sự gia tăng từ 14,43% năm 2010 lên 35,09% năm 2019. Tỷ lệ lao động phổ thông có xu hướng giảm từ 44,98% năm 2010 xuống còn 20,78% năm 2019. Điều này phần nào cho thấy chất lượng lao động ngành du lịch tỉnh Phú Thọ đã có sự cải thiện trong những năm vừa qua.


Năm

Tổng số lao động (người)

Đại học và trên Đại học

Cao đẳng và Trung cấp

Lao động phổ thông

Tổng số (người)

Tỷ lệ (%)

Tổng số (người)

Tỷ lệ (%)

Tổng số (người)

Tỷ lệ (%)

2010

1.185

171

14,43

481

40,59

533

44,98

2011

1.706

327

19,17

655

38,39

724

42,44

2012

2.176

487

22,38

872

40,07

817

37,55

2013

2.297

585

25,47

879

38,27

833

36,26

2014

2.350

623

26,51

905

38,51

822

34,98

2015

2.284

625

27,36

899

39,36

760

33,27

2016

2.400

678

28,25

980

40,83

742

30,92

2017

2.560

780

30,47

1.100

42,97

680

26,56

2018

2.756

870

32,55

1.215

44,1

671

24,35

2019

2.921

1.025

35,09

1.289

44,13

607

20,78

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 185 trang tài liệu này.

Phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ theo hướng liên kết và hội nhập - 11

Bảng 3.1. Lao động trong lĩnh vực du lịch của Phú Thọ qua đào tạo Trong giai đoạn 2011 - 2019


Nguồn: Cục thống kê tinh Phú Thọ, Niên giám các năm từ 2010 đến 2019

Tuy nhiên, so với nhu cầu của hoạt động du lịch trên địa bàn và yêu cầu phát triển trong thời gian tới thì nguồn nhân lực du lịch của tỉnh còn vừa thiếu về số lượng, vừa không đảm bảo về chất lượng. Tỷ lệ lao động qua đào tạo chuyên ngành du lịch vẫn còn thấp, lao động hiện tại có chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề còn ít, thiếu lao động có chuyên môn kỹ thuật cao và cán bộ giỏi về quản lý và điều hành kinh doanh du lịch. Trước tình hình đó, công tác đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về du lịch đã được quan tâm. Trong thời gian qua, ngành du lịch tỉnh đã tổ chức cho cán bộ dự các lớp tập huấn trong và ngoài nước, các chương trình dự án đào tạo nguồn nhân lực EU, hợp tác với Tây Ban Nha và Tổng cục Du lịch tổ chức. Trình độ lý luận chính trị cũng được nâng cao: Lãnh đạo các phòng du

lịch cấp tỉnh, phòng văn hóa - thông tin cấp huyện có trình độ trung cấp và cao cấp lý luận chính trị.

Công tác đào tạo, đào tạo lại đội ngũ công nhân kỹ thuật tại các doanh nghiệp được chú trọng. Ngành du lịch Phú Thọ đã phối hợp với Tổng cục Du lịch, Phòng Thương mại công nghiệpViệt Nam tổ chức lớp bồi dư ng nghiệp vụ thuyết minh viên, mở các lớp bồi dư ng về nghiệp vụ buồng, bàn, bar, bếp cho các cán bộ của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch.

Chương trình đào tạo chuyên ngành du lịch đang được triển khai thực hiện ở trường Đại học Hùng Vương, Cao đẳng kinh tế-kỹ thuật Phú Thọ, Cao đẳng Công nghiệp thực phẩm, Cao đẳng nghề Phú Thọ… Trong thời gian tới sẽ có nhiều học sinh tốt nghiệp sẽ bổ sung nguồn nhân lực cho ngành du lịch.

Tuy nhiên, vẫn tồn tại nhiều bất cập về nguồn nhân lực ảnh hưởng tới chất lượng dịch vụ du lịch. Tỷ lệ lao động có trình độ dào tạo còn thấp “cho đến 2015, theo khảo sát chỉ có khoảng 20% lao động trong các cơ sở du lịch có bằng hoặc chứng chỉ chuyên ngành du lịch ở các cấp độ’” (Dương Hoàng Hương, 2018). Trình độ ngoại ngữ của đội ngũ lao động du lịch còn hạn chế (chủ yếu là chuyên ngành Tiếng Anh, chuyên ngành tiếng Hàn Quốc, Pháp và một số ngoại ngữ khác khá ít). “Có tới 82% khách du lịch đánh giá thái độ phục vụ của nhân viên du lịch chỉ từ mức trung bình trở xuống”(Dương Hoàng Hương, 2017).

- Cơ sở vật chất kỹ thuật và hạ tầng du lịch

* Cơ sở lưu trú

Hệ thống cơ sở lưu trú, ăn uống của Phú Thọ có tốc độ phát triển khá nhanh trong những năm gần đây. Giai đoạn 2010 - 2017, cơ sở lưu trú du lịch gia tăng, số lượng cơ sở lưu trú năm 2017 là 380 cơ sở lưu trú, gấp 1,94 lần so với năm 2010 là 194 cơ sở lưu trú. Công suất sử dụng buồng bình quân giai đoạn này ở mức 25,28%. Phát triển du lịch tiếp tục được các cấp chính quyền tỉnh Phú Thọ quan tâm trong năm 2017, nhiều dự án khu nghỉ dư ng đã được hoàn thành trong năm 2017, như tổ hợp khách sạn và trung tâm thương mại Mường Thanh, dự án Khách sạn Sài Gòn – Phú Thọ được đẩy nhanh tiến độ thi công (Theo báo cáo tình hình kinh tế - xã hội

tỉnh Phú Thọ, 2017). Năm 2019 đã có 345cơ sở lưu trú với tổng số 4.318 phòng, công suất buồng bình quân đạt 40,11%.‌

Bảng 3.2. Cơ sở lưu trú du lịch giai đoạn trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2011 - 2019


Năm

Số lượng cơ sở

Tăng trưởng

(%)


Số buồng

Tăng trưởng

(%)

Công suất buồng bình quân (%)

2011

182

15,19

2.505

10,55

35,53

2012

202

10,99

2.754

9,94

35,98

2013

220

8,91

3.896

41,47

20,5

2014

236

7,27

4.006

2,82

20,36

2015

216

-8,47

2.770

-30,85

21,02

2016

223

3,24

2.868

3,54

21,56

2017

308

38,12

3.922

36,75

22,01

2018

318

3,24

4.125

7,17

36,18

2019

345

8,49

4.318

4,67

40,11

(Nguồn: Cục thống kê Phú Thọ, Niên giám 2011 và 2019)

*Cơ sở kỹ thuật khác

Các cơ sở này bao gồm cơ sở ăn uống ngoài khách sạn lưu trú, các cơ sở vui chơi giải trí, thể thao, dịch vụ du lịch bổ sung, các dịch vụ vận chuyển khách du lịch… Hiện nay, các công trình dịch vụ, vui chơi giải trí chỉ mới tập trung ở một số khu đô thị ven biển như khu du lịch Vườn quốc gia Xuân Sơn, mỏ nước khoáng nóng Thanh Thủy, đền Mẫu Âu Cơ, chùa Tam Giang, ao Giời-suối Tiên. Bước đầu đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí cho người dân địa phương và một phần khách du lịch. Tuy nhiên. Mặc dù Phú Thọ có nhiều tiềm năng nhưng chưa phát huy hết lợi thế của ngành du lịch. So với nhu cầu phát triển, hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật với các dịch vụ bổ sung ngoài lưu trú nhìn chung còn hạn chế. Nhiều danh lam thắng cảnh chưa khơi dậy hết tiềm năng như Vườn Quốc gia Xuân Sơn, đầm Ao Châu,...

Xem tất cả 185 trang.

Ngày đăng: 30/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí