Khê)…ở Con Cuông, hay bản Chắn, bản Mac, bản Lau (xã Thạch Giám), bản Xoóng Con, bản Phồng (xã Lưu Kiền), bản Huồi Tố (xã Mai Sơn)… ở huyện Tương Dương.
Phát triển du lịch cộng đồng dựa trên những lợi thế sẵn có, ngoài việc biến nó thành điểm nhấn cho du lịch Nghệ An, đó còn là một cơ hội lớn để giao lưu, quảng bá những giá trị văn hoá đặc sắc của các dân tộc ở Nghệ An. Hơn hết, nó còn là một giải pháp giúp xoá đói, giảm nghèo. Bởi thực chất, du lịch cộng đồng là một hình thức để xã hội hoá du lịch, mỗi người dân đều có thể làm du lịch dựa trên những giá trị, bản sắc văn hoá nơi cộng đồng mình sinh sống.
2.2.2.4. Các loại tài nguyên nhân văn khác
- Các làng nghề:
Lịch sử phát triển văn hóa, kinh tế của Nghệ An luôn gắn với lịch sử phát triển làng nghề. Ở đây bảo lưu nhiều tinh hoa nghệ thuật và kỹ thuật truyền từ đời này sang đời khác, với những sản phẩm mang bản sắc riêng của dân tộc Nghệ An.
Hiện nay trên địa bàn tỉnh có những nghề truyền thống chủ yếu:
+ Nghề dệt may thổ cẩm: chủ yếu là dệt vải, may trang phục đồng bào dân tộc, túi xách… làm quà lưu niệm tập trung chủ yếu ở khu vực miền núi phía Tây Nghệ An. Quỳ Châu là làng nghề dệt thổ cẩm nổi tiếng và lớn nhất của tỉnh hiện nay với nhiều sản phẩm đặc sắc, hoa văn tinh tế có giá trị văn hóa và cả kinh tế.
Hình 2.5: Sản phẩm từ dệt thêu thổ cẩm truyền thống ở Quỳ Châu
Có thể bạn quan tâm!
- Vị Trí Tỉnh Nghệ An Trong Chiến Lược Phát Triển Du Lịch
- Xếp Hạng Ưu Tiên Theo Tiêu Chí Trong Hệ Thống Bảo Tồn
- Danh Mục Các Lễ Hội Tỉnh Nghệ An
- Thực Trạng Phát Triển Du Lịch Tỉnh Nghệ An
- Cơ Sở Lưu Trú Tỉnh Nghệ An Giai Đoạn 2000 – 2010
- Lao Động Trong Ngành Du Lịch Tỉnh Nghệ An Giai Đoạn 2000 – 2010
Xem toàn bộ 168 trang tài liệu này.
+ Nghề làm tương: được sản xuất từ lâu đời tại huyện Nam Đàn. Tuy không phải là cao lương mỹ vị nhưng từ bao đời nay, tương Nam Đàn vẫn được biết đến là thương hiệu mang nét đặc trưng riêng của xứ Nghệ. Xác định nghề làm tương là nghề cổ truyền, chính quyền địa phương luôn có chính sách quan tâm, tạo điều kiện để làng nghề phát triển. Đặc biệt, huyện Nam Đàn đang khuyến khích người dân trồng 300 - 400ha đậu tương truyền thống, tránh phụ thuộc vào nguyên liệu ở bên ngoài như hiện nay. Để ai đặt chân đến vùng đất này, có dịp được nếm tương Nam Đàn, sẽ không quên câu ca chân chất:
"Ai về ăn nhút Thanh Chương Dừng chân nếm thử vị tương Nam Đàn"
+ Làng nghề gốm cổ Trù Sơn (huyện Đô Lương): Gốm ở Trù Sơn có lẽ là loại gốm còn giữ được những nét cơ bản nhất của gốm cổ. Không chỉ vì nó được làm thủ công mà ở đây trong từng khâu, từng công đoạn đều đơn giản, không cầu kỳ, sặc sỡ, tuy nhẹ, mỏng, nhưng khá cứng. Để có được loại đất ưng ý để về làm gốm, người Trù Sơn phải xuống Nghi Văn (Nghi Lộc) và lên tận Sơn Thành (Yên Thành), những nơi đó mới có loại đất sét có màu đỏ, dẻo và đẹp, thích hợp cho việc làm gốm.
+ Làng nghề đóng thuyền: Nghệ An có nhiều cơ sở và làng truyền thống đóng tàu thuyền: Trung Kiên, Áng Độ (Nghi Lộc), Lộc Châu, Vạn Lộc (Cửa Lò), Châu Hưng, Do Lễ (Hưng Nguyên), An Bình, Phú Nghĩa, Văn Thai (Quỳnh Lưu), Thanh Bích, Trang Thung (Diễn Châu). Ngày nay nhiều làng nghề đã bị bỏ quên, có làng nghề bị mất hẳn, nhưng cũng có nơi được khôi phục và phát triển, đó là làng đóng thuyền Trung Kiên. Ngày nay, người thợ Trung Kiên đã nhanh chóng tiếp thu khoa học kỹ thuật mới, cùng với kinh nghiệm truyền thống, đã đóng được tàu thuyền đáp ứng với yêu cầu của khách hàng.
Phần lớn nguồn nguyên liệu được khai thác từ địa phương. Công nghệ và quy trình sản xuất vẫn mang nhiều nét thủ công, thô sơ, kỹ thuật chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền từ đời này qua đời khác. Các sản phẩm thủ công trên địa bàn tỉnh
hiện nay hầu như còn sản xuất mang tính tự phát, chưa quan tâm nhiều đến thị hiếu của khách, công tác xúc tiến, quảng bá sản phẩm chưa được chú trọng.
- Đặc sản địa phương, món ăn dân tộc:
+ Cháo lươn: Món cháo lươn, súp lươn đã trở thành "niềm tự hào xứ Nghệ" với cách chế biến đặc biệt và hương vị hết sức đặc trưng. Du khách dù là người Nam hay người Bắc, người xứ Nghệ hay ở vùng quê xa có dịp dừng chân cũng không thể kìm lòng trước bát cháo lươn thơm lừng, sánh mịn, có màu hơi nâu xám điểm những mảnh rau răm, cọng hành tăm. Bởi vậy món cháo lươn xứ Nghệ dù rất giản dị, chân phương bởi được nấu từ những sản vật gần gũi của đồng đất Nghệ An nhưng trở thành nét văn hoá đặc trưng cho vùng đất này, thành điểm nhớ, niềm thương của những người con xứ Nghệ khi xa quê, tạo ấn tượng khó phai của người khách có dịp ghé qua Nghệ An.
+ Cơm lam: Du lịch miền Tây xứ Nghệ đang là điểm đến hấp dẫn du khách trong và ngoài nước không chỉ nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng mà còn làm ấm lòng thực khách khó tính nhất bởi món cơm lam độc đáo khó quên. Theo kinh nghiệm của đồng bào Thái, để làm được ống cơm lam ngon phải mất rất nhiều công đoạn. Từ chọn ống lam được chặt từ cây bánh tẻ mà phải chặt những ống hứng được nhiều ánh sáng mặt trời nhất, không già và cũng không non. Mỗi ống chặt bỏ mắt một đầu, đầu còn lại có tác dụng như cái đáy nồi. Đến gạo để nấu cơm lam cũng phải chọn thứ gạo nếp thơm ngon đem ngâm cho nở rồi vo sạch, rắc thêm chút muối, trộn đều rồi cho gạo vào ống và đổ nước xâm xấp với gạo.Miệng ống lam phải được nút bằng lá chuối rừng hoặc lá dong để cơm lam giữ nguyên hương vị.
Cơm lam đã trở thành món "khoái khẩu" của khách du lịch. Tại các lễ hội như Hội Hang Bua, Thẩm Ồm (Quỳ Châu), Đền Chín Gian (Quế Phong)... cơm lam đã được các du khách trong và ngoài nước ưa chuộng. Tại các khách sạn, nhà hàng hiện nay, cơm lam được coi là "đệ nhất món ăn" trong thực đơn của "thượng đế".
Ngoài ra, còn có một số sản vật khác của địa phương như thổ cẩm, đây là sản phẩm của núi rừng với những đường nét hoa văn mềm mại, do những cô gái miền núi Nghệ An dệt từ đôi tay khéo léo của mình; nhút Thanh Chương, tương Nam
Đàn hay những con cá Mát – đặc sản của sông Giăng, ngoài kho tương, ăn với cơm nóng, cá Mát còn có một cách chế biến khác đó là đem kẹp cá vào vỉ tre tươi và nướng giòn trên nồi than hoa; hay những trái cam Xã Đoài ngọt lịm mà chẳng nơi nào có được. Tất cả là những món quà mà du khách từng một lần ghé đến Nghệ An thường tìm đến thưởng thức và mua về biếu người thân.
Hình 2.6: Cá Mát sông Giăng – Cam Xã Đoài
- Văn hóa nghệ thuật:
Dân ca xứ Nghệ (hò, ví, giặm) là một di sản tinh thần vô giá, kết tinh trí tuệ, tình yêu và tài hoa của bao thế hệ của cộng đồng dân cư, của các dân tộc anh em trên quê hương Nghệ An. Có thể xem đó là một thứ rượu đặc biệt, được chưng cất nên từ nụ cười và những giọt nước mắt, từ những say đắm mãnh liệt cũng như nỗi buồn đau khắc khoải, từ mồ hôi, nước mắt và máu của nhân dân, là tấm gương phản chiếu một cách trung thực nhất, sâu sắc nhất đời sống vật chất và tinh thần, những nét riêng trong truyền thống, bản sắc, tính cách của cuộc sống và con người xứ Nghệ.
Với những nét đặc sắc về nội dung trữ tình và làn điệu, dân ca xứ Nghệ là một di sản tiêu biểu của vùng văn hóa Nghệ - Tĩnh. Trong nỗ lực bảo tồn, phát huy di sản dân ca xứ Nghệ, vào tháng 3 năm 2011, Sở Văn hóa Thể thao Du lịch 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh cùng Hội Văn nghệ dân gian Nghệ An tổ chức Hội thảo khoa học “Bảo tồn và phát huy các giá trị dân ca, hò, ví, dặm xứ Nghệ”. Tại Hội thảo, hai tỉnh đã đặt vấn đề phối hợp khởi động lộ trình lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận dân ca, hò, ví, dặm xứ Nghệ là văn hóa di sản nhân loại cần được bảo vệ khẩn cấp.
2.3. Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch
2.3.1. Hệ thống giao thông vận tải
* Mạng lưới đường bộ:
- Quốc lộ 1A: là tuyến quốc lộ xuyên Việt của cả nước, đoạn chạy qua Nghệ An dài 15km, chạy xuyên qua trung tâm thành phố Vinh theo hướng Bắc – Nam và đã được nâng cấp đạt tiêu chuẩn quốc gia. Đây có thể coi là tuyến đường đầu tiên đem lại sự giao thương của tỉnh với các tỉnh lân cận; Là tuyến đường huyết mạch, xương sống có vai trò tích cực trong phát triển du lịch tỉnh Nghệ An.
- Quốc lộ 7: là quốc lộ dài 225km nằm hoàn toàn trong địa phận tỉnh Nghệ An (chính xác gọi. là quốc lộ 7A, để phân biệt với quốc lộ 7B đoạn từ thị trấn Mường Xén đi Ta Đo). Quốc lộ chạy qua các huyện nối liền vùng đồng bằng với trung du miền núi: Yên Thành, Đô Lương, Anh Sơn, Con Cuông, Tương Dương, Kỳ Sơn. Hầu hết các thị trấn của các huyện lỵ đều nằm trên tuyến đường này. Đây là tuyến quốc lộ có vai trò thúc đẩy hình thành và phát triển các tuyến du lịch nội vùng và nước bạn Lào. Thêm vào đó, tuyến đường này chạy dọc miền Tây Nghệ An nơi có Khu dự trữ sinh quyển thế giới là điều kiện đẩy mạnh loại hình du lịch sinh thái.
- Đường Hồ Chí Minh: đoạn qua Nghệ An dài 133 km, đi qua 29 xã của năm huyện, thị xã nối các tuyến tạo thành mạng lưới giao thông giữa phía tây nam và tây bắc, nối các trục dọc giữa đồng bằng và miền núi. Sự có mặt của tuyến đường Hồ Chí Minh đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội nói chung và du lịch tỉnh nhà nói riêng. Tuyến đường này đã góp phần giải phóng những cản trở
của du khách trên hành trình đến với Nghệ An, rút ngắn khoảng cách giữa Nghệ An với một số điểm du lịch phía Bắc (đặc biệt là thủ đô Hà Nội) cũng như phía Nam; Tạo điều kiện cho du lịch tỉnh nhà tích cực hội nhập, mở rộng quan hệ, hình thành các tuyến du lịch liên tỉnh nhiều tiềm năng.
- Các tuyến đường tỉnh lộ
Toàn tỉnh có 10 tuyến tỉnh lộ đang được nâng cấp có ý nghĩa to lớn trong việc phát triển các điểm du lịch. Hệ thống giao thông nội tỉnh từng bước được xây dựng, nâng cấp góp phần mang lại diện mạo mới cho tỉnh. Các tuyến vươn đến vùng sâu, vùng xa đã tạo điều kiện hình thành nhiều lảng bản định cư mới cũng như giúp trao đổi hàng hóa, giao lưu, nâng cao trình độ dân trí. Hệ thống giao thông phát triển cũng góp phần thúc đẩy khai thác tiềm năng du lịch tỉnh.
* Mạng lưới đường sắt:
Nghệ An có tuyến đường sắt Bắc – Nam chạy qua với tổng chiều dài 94km từ khe Nước Lạnh đến Yên Xuân, ngoài ra còn có tuyến đường nhánh Cầu Giát – Nghĩa Đàn dài 30km. Tuyến đường sắt Bắc – Nam và tuyến quốc lộ 1A đoạn chạy qua Nghệ An đóng vai trò cực kì to lớn trong quá trình thúc đẩy phát triển du lịch tỉnh nhà. Hàng ngày, đều có nhiều chuyến tàu từ Bắc vào và từ Nam ra đi qua Nghệ An; Đây là loại phương tiện rất thông dụng của khách du lịch khi đến với Nghệ An. Chính vì thế mà ngành đường sắt đã phải tổ chức tăng tuyến và mở riêng một chuyến tàu hàng ngày đến Nghệ An và ngược lại.
* Mạng lưới đường hàng không:
Nghệ An có sân bay Vinh với đường băng dài 2.174km, rộng 30m, đang được nâng cấp để khai thác phục vụ cho sự phát triển kinh tế và du lịch tỉnh nhà. Hiện nay, mỗi ngày có một chuyến bay (của một hãng) từ Vinh tới hai thành phố lớn nhất cả nước là Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và ngược lại. Sân bay Vinh phục vụ nhu cầu đi lại không chỉ đối với tỉnh nhà nói riêng mà còn phục vụ cho hành khách các tỉnh lân cận như Thanh Hóa, Hà Tĩnh. Tuy nhiên các chuyến bay tới Vinh còn ít nên giá thành một lần bay tương đối cao đã ảnh hưởng không nhỏ đến lượng du khách đến với Nghệ An bằng đường hàng không.
2.3.2. Hệ thống cung cấp điện
Hệ thống điện lực của Nghệ An khá phát triển. Trên địa bàn tỉnh, nguồn cung cấp điện chính cho toàn tỉnh chủ yếu từ nhà máy thủy điện Hòa Bình cấp điện cho trạm 220 Kv Hưng Đông bằng đường dây 220Kv; có hệ thống trạm điện hạ thế 220Kv từ Thanh Hóa vào đảm bảo cung cấp cơ bản cho các huyện ven biển, đồng bằng và trung du. 19/19 huyện, thành, thị đã sử dụng điện lưới quốc gia. Tổng số xã, phường, thị xã có điện là 431/473, đạt tỉ lệ 91.2%. Hiện nay tỉnh đang thi công nhiều công trình thủy điện nhỏ như Bản Lã, Bản Cốc, Nhãn Hoạt, Thác Muối đáp ứng nhu cầu điện cho sinh hoạt và sản xuất cũng như hoạt động du lịch của tỉnh nhà.
2.3.3. Hệ thống bưu chính, viễn thông
Mạng lưới bưu chính, viễn thông thời gian gần đây đã được quan tâm phát triển. Bưu điện tỉnh đã có hệ thống chuyển mạch hiện đại, công nghệ tiên tiến. Cùng với việc hiện đại hóa mạng lưới viễn thông, mạng bưu cục được phát triển mạnh mẽ, số lượng các bưu cục cấp I,II,III; điểm bưu điện văn hóa không ngừng được mở rộng, hình thành, phát triển rộng khắp các dịch vụ Internet, hộp thư thoại…
Từ năm 1997, bưu điện tỉnh Nghệ An đầu tư lắp đặt và đưa vào sử dụng mạng thông tin di động. Sự ra đời của mạng thông tin di động đã đáp ứng nhu cầu sử dụng điện thoại của người dân. Số máy điện thoại tăng nhanh, toàn tỉnh có 1 819 595 thuê bao di động và 582 715 số thuê bao cố định; 100% phường, xã có điện thoại, bình quân có 82,18 máy/100 dân (2010). Chất lượng thông tin liên lạc của tỉnh có bước tiến vượt bậc, cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, doanh thu từ ngành bưu chính viễn thông mang lại đạt 131 100 triệu đồng (2010). Mạng điện thoại di động đã phủ sóng tới hầu hết các trung tâm của huyện, thị. Mạng điện thoại phủ sóng đến các huyện vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên, cần tích cực đẩy mạnh hơn nữa, đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách, đặc biệt là khách quốc tế. Chú trọng hơn trong lắp đặt các dịch vụ bưu chính – viễn thông ngay trong các cơ sở lưu trú của tỉnh.
2.3.4. Hệ thống cấp, thoát nước
Nghệ An rất chú trọng công tác cấp nước sạch cho nhân dân. Hiện nay, nước sinh hoạt cho đô thị và các khu công nghiệp đều có hệ thống Nhà máy nước phân bố đều trên toàn tỉnh. Nhà máy nước Hưng Vĩnh (Vinh) có công suất 60.000 m3/ngày đêm là nguồn cung cấp nước cho nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của thành phố Vinh. Hệ thống này đang chuẩn bị nâng công suất lên 80.000 m3/ngày đêm cung cấp gần 18,5 triệu m3 nước sạch cho vùng Vinh và phụ cận. Công tác đầu tư các công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn được thực hiện đều khắp cả tỉnh thông qua việc lồng ghép các chương trình đầu tư trên địa bàn (chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch, vệ sinh môi trường nông thôn, chương trình 135…)
Về thoát nước thì hiện nay tỉnh đang triển khai các dự án do nước ngoài đầu tư. Dự án nâng cấp, cải tạo hệ thống nước thải của thành phố Vinh (CHLB Đức); dự án xây dựng hệ thống nước thải của thị xã Cửa Lò (Vương quốc Bỉ tài trợ) đang được hoàn thiện và đi vào hoạt động góp phần bảo vệ môi trường trên địa bàn.
Tuy nhiên, do kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ nên hệ thống thoát nước tại thành phố Vinh, thị xã Cửa Lò, các thị trấn, huyện chưa được xử lý triệt để trước khi thải ra môi trường; còn các vùng ven biển thì chủ yếu là xuống biển và thẩm thấu. Công tác xử lý nước thải các khu du lịch chưa được quan tâm, nhiều cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch tại các khu du lịch trên các bãi biển còn thải nước trực tiếp ra môi trường. Vùng dân cư nông thôn chủ yếu là thoát nước tự nhiên và thẩm thấu xuống đất, vì vậy cần quan tâm hơn nữa việc cung cấp nguồn nước sạch cho vùng sâu vùng xa nơi có nhiều phong cảnh đẹp, khả năng thu hút du khách cao.
2.4. Các điều kiện kinh tế - xã hội khác
- Chính sách phát triển du lịch
Đường lối chính sách và hệ thống văn bản pháp luật là yếu tố quan trọng, góp phần tạo hành lang pháp lý cho hoạt động du lịch, đồng thời định hướng để quá trình phát triển du lịch tỉnh Nghệ An phù hợp với mục tiêu chung của vùng du lịch Bắc Trung Bộ và trên cả nước.