những yếu cầu quan trọng để mỗi doanh nghiệp du lịch, mỗi địa phương quốc gia phát triển du lịch bền vững.
1.1.2. Phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch.
1.1.2.1. Khả năng, lợi ích phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch.
Phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch không chỉ là phát triển thị trường trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu tại chỗ, đem lại lợi ích kinh tế to lớn cho làng nghề mà thực chất phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch là một cách du lịch văn hóa, là giới thiệu để khách du lịch trong nước và nước ngoài hiểu thêm những đặc trưng văn hóa, truyền thống của nước ta cũng như của mỗi làng nghề truyền thống.
Phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch là phát triển loại hình du lịch văn hóa chất lượng cao, là loại hình khai thác các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống, như là một đối tượng tài nguyên du lịch phục vụ cho việc tìm hiểu văn hóa, tham quan, vui chơi, giải trí.
Từ rất lâu, ngoài công việc ruộng đồng, bà con nông dân còn tận dụng thời gian nhàn rỗi sản xuất thêm sản phẩm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày như: Dệt chiếu, đan đát, làm bánh tráng, đóng ghe, se nhang, khắc gỗ, vẽ tranh trên kiếng... trở thành mặt hàng ưa thích được tiêu thụ rộng rãi trong và ngoài nước.
Xác định việc khôi phục, phát triển các nghề, làng nghề tiểu thủ công nghiệp nông thôn của tỉnh nhằm thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm tăng thu nhập cho nông dân; giảm dần sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trong nông thôn theo hướng công nghiệp hóa. Đồng thời, nhằm duy trì bảo tồn, phát triển các giá trị văn hóa của địa phương.
Các làng nghề truyền thống không chỉ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế chung mà còn có giá trị lớn về văn hóa – xã hội. Mỗi làng nghề chính là một địa chỉ văn hóa, phản ánh nét văn hóa độc đáo của địa phương. Làng nghề truyền thống được xem là tài nguyên du lịch nhân văn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi các sản phẩm làng nghề luôn bao gồm trong đó cả nội dung giá trị vật thể và phi vật thể.
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch ở Hà Nội - 2
- Nghề Truyền Thống, Làng Nghề Truyền Thống .
- Phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch ở Hà Nội - 4
- Thực Tiễn Phát Triển Làng Nghề Truyền Thống Gắn Với Du Lịch Của Một Số Địa Phương Ở Việt Nam.
- Phát Triển Làng Nghề Gắn Với Du Lịch Ở Quảng Nam.
- Chính Sách Phát Triển Làng Nghề Truyền Thống Với Phát Triển Du Lịch.
Xem toàn bộ 150 trang tài liệu này.
Dọc theo chiều dài đất nước ta, hầu như ở địa phương nào, du khách cũng có thể dừng chân để tìm hiểu làng nghề, sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống, những nghề đã gắn với tên địa phương và đi vào lòng người một cách tự nhiên. Đồng bằng Bắc Bộ là nơi có nhiều làng nghề thủ công truyền thống nhất, như lụa Vạn Phúc, gốm sứ Bát Tràng, mây tre đan Phú Vinh, thêu Văn Lâm, chạm khảm Chuôn Ngọ thuộc Hà Nội; gò đồng Đại Bái Bắc Ninh; vàng bạc Châu Khê Thái Bình; đúc đồng Ý Yên Nam Định, v.v...
Miền Trung có điêu khắc đá Non nước Ninh Bình; làng nghề thêu, đúc đồng Huế, gốm Phước Tích Huế; đúc đồng Phước Kiều, gốm Kim Bồng, làng trống Lâm Yên Quảng Nam; rượu Bầu Đá Bình Định, nón ngựa Bình Định; thổ cẩm Mỹ Nghiệp (dân tộc Chăm), gốm Bàu Trúc Ninh Thuận; v.v... Đồng bằng sông Cửu Long có làng dệt thổ cẩm Châu Phong (huyện Tân Châu) và dệt thổ cẩm Văn Giáo (huyện Tịnh Biên) An Giang, đường thốt nốt An Giang; gốm Vĩnh Long; sứ Lái Thiêu Bình Dương; kẹo dừa và sản phẩm từ dừa Bến Tre, v.v...
Làng nghề phát triển đã thực sự tạo nên bộ mặt mới phong phú của nhiều vùng nông thôn trong cả nước, tạo nên nguồn tài nguyên du lịch mang đặc trưng mỗi làng nghề, mỗi vùng kinh tế. Tìm hiểu, thưởng thức những nét văn hóa đậm đà bản sắc của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền trong các sản phẩm thủ công mỹ nghệ đang là một yêu cầu không thể thiếu của mỗi du khách.
Một tài nguyên vô cùng đặc sắc của làng nghề truyền thống nước ta là các lễ hội tôn vinh các vị Tổ nghề; những hoạt động tín ngưỡng tôn nghiêm, sôi nổi, hào hứng thể hiện truyền thống "uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây" của dân tộc, đồng thời góp phần làm phong phú thêm các sản phẩm du lịch làng nghề. Lịch sử đã ghi lại ba cụ Hứa Vĩnh Kiều (quê Thanh Hóa), Đào Trí Tiến (quê Bắc Ninh), Lưu Phong Tú (quê Hải Dương) đã truyền dạy cho dân làng Bát Tràng (Hà Nội) và hai làng Thổ Hà, Phù Lãng (Bắc Ninh); cụ Tổ nghề khảm trai Lê Công Thành; cụ Tổ nghề thêu Lê Công Hành; cụ Tổ nghề dệt lụa Lã Thị Nga, cụ Tổ nghề đúc đồng Không Lộ thiền sư; ba cụ Tổ nghề kim hoàn Trần Hòa, Trần Điện và Trần Diễn; v.v...
Việt Nam đã có những nghề thủ công xuất hiện từ hàng trăm năm, có nghề như gốm xuất hiện từ hàng nghìn năm (gốm Bàu Trúc Ninh Thuận), và trong quá trình phát triển ấy, đã trải qua nhiều thăng trầm, song xu hướng chung vẫn là phát triển ngày càng đa dạng, phong phú về mẫu mã, kiểu dáng (như từ thủ công chuyển sang thủ công mỹ nghệ, từ gốm sứ dân dụng chuyển sang gốm sứ mỹ nghệ với những bức tranh gốm đặc sắc...), đồng thời từng bước ứng dụng công nghệ mới, tiên tiến trong quá trình sản xuất, vừa nâng cao chất lượng, vừa tăng năng suất lao động, vừa giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Trong quá trình phát triển, làng nghề nước ta tiếp thu những tinh hoa văn hóa của thế giới, không những không bị "đồng hóa" mà còn không ngừng phát huy sáng tạo, tô điểm thêm nét văn hóa cho các sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề, giữ được những nét riêng của Việt Nam. Những người có công đầu trong việc này chính là những nghệ nhân, thợ giỏi làng nghề. Giới thiệu với khách du lịch gặp gỡ những nghệ nhân tiêu biểu, quá trình nghiên cứu, sáng tạo cùng những đóng góp của họ cho sự phát triển của làng nghề cũng là một thế mạnh của du lịch làng nghề cần được khai thác.
Trong xu thế hội nhập và mở cửa, làng nghề truyền thống đang dần lấy lại vị trí quan trọng của mình trong đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của mỗi dân tộc mỗi quốc gia. Những làng nghề này như một hình ảnh đầy bản sắc, khẳng định nét riêng biệt, độc đáo không thể thay thế. Một cách giới thiệu sinh động về đất, nước và con người của mỗi vùng, miền, địa phương. Phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch chính là một hướng đi đúng đắn và phù hợp, được nhiều quốc gia ưu tiên trong chính sách quảng bá và phát triển du lịch. Những lợi ích to lớn của việc phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch không chỉ thể hiện ở những con số tăng trưởng lợi nhuận kinh tế, ở việc giải quyết nguồn lao động địa phương mà hơn thế nữa, còn là một cách thức gìn giữ và bảo tồn những giá trị văn hoá của dân tộc. Đó là những lợi ích lâu dài không thể tính được trong ngày một ngày hai.
Một địa phương muốn thu hút khách du lịch, tạo ra nhiều loại hình du lịch hấp dẫn đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách thì phải bắt tay vào việc xây dựng và phát triển các sản phẩm du lịch gắn liền với việc khai thác có chiều sâu và khai thác đúng tài nguyên du lịch của địa phương đó.
Trong những năm gần đây, phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch ở Việt Nam ngày càng hấp dẫn du khách, đặc biệt là du khách nước ngoài, bởi những giá trị văn hóa lâu đời và cách sáng tạo sản phẩm thủ công đặc trưng ở mỗi vùng. Lợi thế của phần lớn các làng nghề là nằm trên trục giao thông thuận lợi, cả đường bộ lẫn đường sông nên thuận tiện để xây dựng các chương trình du lịch kết hợp. Có thể kế đến các địa phương khá năng động trong việc phát huy lợi thế làng nghề để phát triển du lịch như Hà Nội, Hoà Bình, Bắc Ninh, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam...
Làng nghề Việt Nam mang tính tập tục truyền thống, đặc sắc, có tính kinh tế bền vững, mang đến nhu cầu việc làm tại chỗ và những lợi ích thiết thực cho các cộng đồng cư dân nhỏ lẻ trên mọi miền đất nước (chủ yếu ở các
vùng ngoại vi thành phố và Nông thôn Việt Nam), đồng thời góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của toàn xã hội. Các làng nghề thủ công, làng nghề truyền thống, hay làng nghề cổ truyền... có mặt khắp nơi trên đất nước Việt Nam.
Cùng với sự phát triển của nền văn minh nông nghiệp từ hàng ngàn năm trước đây, nhiều nghề thủ công cũng đã ra đời tại các vùng nông thôn Việt Nam, việc hình thành các làng nghề bắt đầu từ những nghề ban đầu được cư dân tranh thủ làm lúc nông nhàn, những lúc không phải là mùa vụ chính. Bởi lẽ trước đây kinh tế của người Việt cổ chủ yếu sống dựa vào việc trồng lúa nước mà nghề làm lúa không phải lúc nào cũng có việc. Thông thường chỉ những ngày đầu vụ, hay những ngày cuối vụ thì người nông dân mới có việc làm nhiều, vất vả như: cày bừa, cấy, làm cỏ (đầu vụ) cho đến gặt lúa, phơi khô... còn những ngày còn lại thì nhà nông rất nhàn hạ, rất ít việc để làm. Từ đó nhiều người đã bắt đầu tìm kiếm thêm công việc phụ để làm nhằm mục đích ban đầu là cải thiện bữa ăn và những nhu cầu thiết yếu hằng ngày về sau là tăng thêm thu nhập cho gia đình.
Theo thời gian, nhiều nghề phụ ban đầu đã thể hiện vai trò to lớn của nó, mang lại lợi ích thiết thân cho cư dân. Như việc làm ra các đồ dùng bằng mây, tre, lụa... phục vụ sinh hoạt hay đồ sắt, đồ đồng phục vụ sản xuất. Nghề phụ từ chỗ chỉ phục vụ nhu cầu riêng đã trở thành hàng hóa để trao đổi, đã mang lại lợi ích kinh tế to lớn cho người dân vốn trước đây chỉ trông chờ vào các vụ lúa. Từ chỗ một vài nhà trong làng làm, nhiều gia đình khác cũng học làm theo, nghề từ đó mà lan rộng ra phát triển trong cả làng, hay nhiều làng gần nhau.
Và cũng chính nhờ những lợi ích khác nhau do các nghề thủ công đem lại mà trong mỗi làng bắt đầu có sự phân hóa. Nghề đem lại lợi ích nhiều thì phát triển mạnh dần, ngược lại những nghề mà hiệu quả thấp hay không phù
hợp với làng thì dần dần bị mai một. Từ đó bắt đầu hình thành nên những làng nghề chuyên sâu vào một nghề duy nhất nào đó, như làng Gốm, làng làm chiếu, làng làm lụa, làng làm đồ đồng...
Làng nghề truyền thống đã và đang trở thành nguồn lực quan trọng cho phát triển du lịch. Hàng thủ công truyền thống là một phần quan trọng của du lịch, là một trong ít mặt hàng phản ánh văn hóa bản địa đặc sắc. Hàng thủ công truyền thống có thể được ví như biểu tượng văn hóa và nghệ thuật của một quốc gia, là nhân tố quan trọng để hấp dẫn du khách. Xuất khẩu tại chỗ hàng thủ công truyền thống thông qua việc bán cho khách du lịch đã mang lại nguồn ngoại tệ không nhỏ. Điển hình nhất trong việc phát triển làng nghề với du lịch là làng nghề gốm sứ Bát Tràng. Người dân ở đây khá nhạy bén khi có nhiều hình thức lôi kéo sự tham gia của khách vào quá trình làm nghề, tạo sự hứng thú cho khách du lịch
Mô hình phát triển làng nghề thủ công truyền thống đang trở thành hướng đi mới trong quá trình phát triển du lịch Việt Nam. Các làng nghề thường nằm trên trục đường giao thông, cả đường sông lẫn đường bộ, không chỉ tạo điều kiện lưu thông hàng hóa mà tiện xây dựng tour, tuyến du lịch. Khi tham gia tour du lịch làng nghề, khách không chỉ được ngắm phong cảnh du lịch làng quê mà còn được thăm nơi sản xuất, thậm chí có thể tham gia vào một phần quá trình tạo ra sản phẩm. Chính điều này đã tạo nên sức hấp dẫn riêng của làng nghề truyền thống. Bằng sự nhạy bén, thông qua hoạt động phục vụ du lịch, một số nghề thủ công truyền thống đã được phục hồi như làng gốm Bát Tràng (Hà Nội), Phù Lãng (Bắc Ninh). Thu nhập từ du lịch đã trở thành nguồn thu không nhỏ tại các làng nghề.
Làng nghề truyền thống Việt Nam ra đời từ rất lâu với vai trò, vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội của nhân dân các địa phương. Sự tồn tại của các làng nghề truyền thống không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế: giải
quyết một số lượng lớn công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân địa phương mà còn có vai trò quan trọng trong việc gìn giữ, bảo vệ những giá trị đạo đức, văn hoá truyền thống của các làng, xã, phường, hội. Tuy nhiên, lịch sử các làng nghề truyền thống Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, các ngành nghề thủ công truyền thống có những lúc có nguy cơ bị mai một, thất truyền đặc biệt là giai đoạn những năm cuối của thế kỷ XX.
Ngày nay, khi thu nhập, mức sống của người dân nhiều nơi trên thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng ngày một tăng, trình độ dân trí được ngày một cao thì nhu cầu khám phá, tìm hiểu thế giới xung quanh, tìm hiểu lịch sử, văn hoá, đời sống nhân dân các nước, các dân tộc, các địa phương ngày càng tăng. Và sự thoả mãn những nhu cầu ấy là một trong những động lực thúc đẩy con người đi du lịch nhiều hơn trong thời gian gần đây. Để thoả mãn phần nào những nhu cầu ấy một sản phẩm du lịch mới đã ra đời ở Việt Nam - các chương trình du lịch làng nghề truyền thống.
Sự ra đời của các chương trình du lịch qua các làng nghề một mặt đã thoả mãn phần nào nhu cầu tìm hiểu lịch sử, văn hoá, đời sống người dân Việt Nam nói chung và các làng nghề nói riêng của các du khách. Mặt khác, hoạt động du lịch làng nghề cũng có những đóng góp tích cực trong sự phát triển kinh tế - xã hội của các làng nghề đó.
Các làng nghề không chỉ sản xuất, kinh doanh, mà còn là nơi tổ chức sinh hoạt cộng đồng, mang sắc thái văn hóa riêng biệt, có đặc trưng của từng làng theo ngành nghề truyền thống lâu đời, là nét độc đáo góp phần mở rộng phát triển các loại hình du lịch ở nước ta. Cho nên, đánh thức và phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch là hướng đi hữu hiệu nhằm đưa sản phẩm làng nghề vào thị trường, nâng cao đời sống cho cư dân làng nghề.
1.1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch.
Quá trình phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch chịu tác động của nhiều nhân tố và các nhân tố này tác động, ảnh hưởng lẫn nhau. Nhìn chung, các yếu tố tác động đến sự phát triển của làng nghề được theo các nhóm sau đây:
* Các nhân tố về kinh tế:
Sự tồn tại và phát triển các làng nghề phụ thuộc rất lớn vào sự biến đổi của thị trường, những làng nghề có khả năng đáp ứng và thích ứng với sự thay đổi nhu cầu của thị trường thì có sự phát triển nhanh chóng. Chính thị trường đã tạo định hướng cho sự phát triển của các làng nghề truyền thống. Các hộ, các cơ sở sản xuất kinh doanh của các làng nghề phải hướng ra thị trường, xuất phát từ quan hệ cung cầu hàng hóa dịch vụ, xuất phát từ nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng trên thị trường để hoạch định, cải tiến sản xuất, kinh doanh phù hợp. Ngày nay, thị trường không còn bó hẹp là thị trường hàng hóa dịch vụ mà là các loại thị trường như: thị trường tài chính, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ... đều có ảnh hưởng đến sự phát triển của các làng nghề.
Trình độ phát triển của kỹ thuật và công nghệ: Nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ngày càng cao, sự canh tranh của cơ chế thị trường đòi hỏi phải đa dạng hóa các sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Do vậy các làng nghề phải không ngừng đổi mới trang thiết bị, công nghệ tiên tiến vào quá trính sản xuất, kinh doanh. Trình độ kỹ thuật và công nghệ ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất, chất lượng, giá thành sản phẩm và do đó ảnh hưởng lớn đến năng lực canh tranh của sản phẩm. Nó có thể quyết định sự tồn tại hay suy vong của cơ sở sản xuất sản phẩm đó.
Kết cấu hạ tầng: phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch chỉ có thể có điều kiện phát triển tốt khi hệ thống kết cấu hạ tầng đảm bảo và đồng bộ.. Trong điều kiện hội nhập kinh tế, cạnh tranh khốc liệt, thị trường