hoạch nhu cầu du lịch, tăng cường quan niệm kinh tế hàng hóa, vạch ra sách lược kinh doanh đúng đắn, giải quyết tốt các quan hệ thị trường, cạnh tranh và kiếm lãi.
- Do tính không thể chuyển dịch của sản phẩm du lịch, việc lưu thông sản phẩm du lịch chỉ có thể biểu hiện qua việc thông tin về sản phẩm, nhờ thế dẫn đến sự lưu động của du khách, hiệu suất và tốc độ thông tin về sản phẩm du lịch sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến lượng nhu cầu du lịch lớn hay nhỏ, Vì thế công tác tuyên truyền và giới thiệu du lịch có ý nghĩa rất lớn, cần tận dụng phương pháp khoa học và phương pháp hiện đại để đưa thông tin về sản phẩm du lịch đến tay từng du khách tiềm năng, nâng cao hiệu quả và lợi ích của kinh tế du lịch.
- Tính đồng thời của việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm du lịch khíến xí nghiệp du lịch không thể kiểm nghiệm chất lượng sản phẩm du lịch trước khi du khách quyết định mua và tiêu thụ sản phẩm du lịch, điều đó đề ra yêu cầu cao hơn đối với người sản xuất sản phẩm du lịch. Mặc dù tuyên truyền và thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm du lịch là nhân tố quan trọng của kinh doanh du lịch thành công, nhưng công tác hạt nhân của kinh doanh du lịch vẫn là chất lượng sản phẩm du lịch. Người kinh doanh du lịch phải tăng cường quản lý chất lượng sản phẩm du lịch, không ngừng nâng cao trình độ quản lý kinh doanh và năng suất hiệu quả dịch vụ, giữ vững sự thống nhất giữa hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế.
- Do tính dễ dao động của sản phẩm du lịch về sản phẩm và tiêu thụ, đích tới du lịch phải tuân thủ quy luật phát triển theo tỷ tệ, làm tốt quy hoạch du lịch, xử lý đúng đắn quan hệ tỷ lệ giữa các bộ phận, giữa các yếu tố. Bộ phận kinh doanh du lịch cần lấy sự thay đổi nhu cầu của thị trường du lịch làm căn cứ, xác định sách lược kinh doanh, tiêu thụ linh hoạt, thúc đẩy việc thực hiện giá trị sản phẩm du lịch.
Trong các nhân tố ảnh hưởng đặc điểm của chính sản phẩm du lịch tạo nên. Bên cạnh, cũng chịu ảnh hưởng của môi trường bên ngoài mà không thể kiểm soát được tức hạn chế của nhân tố tạo nên. Trước hết, sản phẩm du lịch là một loại sản phẩm mang tính tổng hợp, giữa các bộ phận kết hợp thành sản phẩm du lịch có mối quan hệ tỷ lệ nhất định, sự tăng giảm của bất kỳ bộ phận nào cũng đều ảnh hưởng đến sự vận hành thuận lợi của hoạt động kinh tế du lịch, việc sản xuất sản phẩm du lịch có quan hệ mật thiết với các ngành nghề
liên quan, sự phát triển của ngành du lịch còn lệ thuộc vào sự phối hợp nhịp nhàng lẫn nhau giữa ngành du lịch với các ngành nghề khác. Hơn nữa, việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm du lịch tất yếu liên quan tới các nhân tố nhiều mặt về chính trị, kinh tế, xã hội, thiên nhiên của nơi đích tới du lịch và nơi nguồn khách như cơ cấu nhân khẩu, trình độ phát triển của kinh tế quốc dân, quan hệ quốc tế, chính sách của chính phủ, chiến tranh, hối suất, quan hệ mậu dịch. Đây là các nhân tố mà ngành du lịch không kiểm soát được.
1.1.4.4. Sản phẩm đơn lẻ và sản phẩm tổng hợp:
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển du lịch tỉnh An Giang năm 2020 - 1
- Phát triển du lịch tỉnh An Giang năm 2020 - 2
- Mức Đóng Góp Của Du Lịch Trong Gdp Một Số Quốc Gia
- Một Số Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Sự Phát Triển Ngành Du Lịch:
- Kinh Nghiệm Của Một Số Nước Và Một Số Địa Phương Việt Nam Trong Phát Triển Du Lịch Và Bài Học Vận Dụng Cho Tỉnh An Giang:
Xem toàn bộ 193 trang tài liệu này.
Bất kỳ sản phẩm du lịch nào cũng nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch. Sản phẩm du lịch có thể là sản phẩm đơn lẻ, có thể là sản phẩm tổng hợp, do một đơn vị cung ứng trọn gói hay do nhiều đơn vị kinh doanh cùng tham gia cung ứng.
Sản phẩm đơn lẻ: Là sản phẩm do các nhà cung ứng đưa ra nhằm thỏa mãn một nhu cầu cụ thể của khách. Ví dụ một khách sạn có dịch vụ cho khách du lịch thuê xe tự lái. Các nhà cung ứng có thể là khách sạn, có thể là nhà hàng, có thể là hãng vận chuyển...Chẳng hạn như một sản phẩm cụ thể của khách sạn Đông Xuyên-TP Long Xuyên khách du lịch có thể chỉ sử dụng bữa ăn trưa hoặc cho thuê phòng ngủ qua đêm, sản phẩm của công viên nước ...Tuy nhiên người du lịch không chỉ thỏa mãn bởi một dịch vụ mà trong chuyến đi du lịch của họ phải được thỏa mãn nhiều nhu cầu do những sản phẩm đó tạo nên. Hay nói cách khác là họ đòi hỏi phải có các sản phẩm tổng hợp.
Sản phẩm trọn gói : Là sản phẩm phải thỏa mãn đồng thời một nhóm nhu cầu mong muốn của khách du lịch. Chẳng hạn chương trình ( tour) du lịch trọn gói bao gồm nhiều dịch vụ đơn lẻ như dịch vụ vận chuyển, dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống, dịch vụ vui chơi giải trí...Sản phẩm tổng hợp cũng có thể do một khách sạn cung ứng. Ví dụ khách đặt bữa tiệc tại khách sạn ngoài dịch vụ chính là bữa tiệc, khách có thể có nhu cầu được phục vụ các dịch vụ khác như vận chuyển, trang trí phòng tiệc, ca nhạc...Các dịch vụ trên tạo ra sản phẩm tổng hợp thỏa mãn nhu cầu của khách vào khách sạn.
Theo chúng tôi, các dịch vụ trung gian là các dịch vụ phối hợp các dịch vụ đơn lẻ thành dịch vụ tổng hợp và thương mại hóa chúng. Sản phẩm du lịch gồm nhiều loại hàng hóa và dịch vụ khác nhau, do các doanh nghiệp khác nhau đảm nhận. Để có một chuyến du lịch hoàn hảo cần có sự phối hợp này. Dịch vụ thu gom sắp xếp các dịch vụ riêng lẻ thành một sản phẩm du lịch hoàn chỉnh. Tức là xây dựng các chương trình du lịch từng phần hay trọn gói.
1.1.5. Thị trường du lịch:
1.1.5.1. Khái niệm và chủng loại thị trường du lịch:
Thị trường du lịch là phạm trù của kinh tế hàng hóa, nói về thực chất, nó là tổng thể các hành vi và quan hệ kinh tế của mọi người phát sinh trong quá trình trao đổi.
Kinh tế du lịch là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, trong quá trình vận hành kinh doanh du lịch, thị trường du lịch phát huy tác dụng. Sự hình thành thị trường du lịch là có quá trình, nó là sản phẩm của hàng hóa, xã hội hóa hoạt động du lịch khi kinh tế xã hội phát triển đến trình độ nhất định. Do sức sản xuất và trình độ khoa học được nâng cao, mặt khác dưới sự thúc đẩy của nhiều động cơ về mậu dịch, giao lưu, xã hội, văn hóa, hình thành nhu cầu xã hội to lớn. Sự phát triển của kinh tế hàng hóa tạo điều kiện tất yếu cho việc thỏa mãn nhu cầu du lịch, tức thông qua hình thức giao lưu hàng hóa mà cung cấp các loại dịch vụ du lịch cho xã hội. Vì thế, thị trường du lịch theo nghĩa hẹp là thị trường nguồn khách, tức trong thời gian nhất định, ở khu vực nào đó tồn tại người mua hiện thực và tiềm tàng có khả năng mua hàng hóa du lịch.
Theo nghĩa rộng, thị trường du lịch là tổng thể các hành vi và quan hệ kinh tế thể hiện ra trong quá trình trao đổi sản phẩm du lịch. Mâu thuẩn cơ bản của thị trường du lịch là mâu thuẩn giữa nhu cầu và cung cấp sản phẩm du lịch. Chức năng cơ bản của thị trường du lịch là làm cầu nối liên kết cung cấp du lịch với nhu cầu du lịch.
Để phân tích nghiên cứu toàn diện xu hướng phát triển của thị trường du lịch thế giới, cần nắm vững quy luật biến đổi của thị trường du lịch, căn cứ nhu cầu để khai thác đúng hướng sản phẩm du lịch. Căn cứ vào sự khác nhau của nhu cầu mà chia thị trường du lịch thành các loại khác nhau như sau:
- Các khu vực lớn trong thị trường du lịch:
Căn cứ vào điều kiện về các mặt kinh tế, văn hóa, tiếp đón du lịch, vị trí địa lý của các địa phương... Tổ chức Du lịch tế giới chia thị trường du lịch thế giới thành sáu khu vực lớn: Thị trường du lịch Châu Âu, thị trường du lịch Châu Mỹ, thị trường du lịch khu vực Đông Á- Thái Bình Dương, thị trường du lịch Nam-Á, thị trường du lịch Trung Đông và thị trường du lịch Châu Phi. Đây là phương pháp phân chia thị trường du lịch quan trọng truyền thống,
thông qua sự thống kê hàng năm theo khẩu độ của Tổ chức Du lịch thế giới mọi người có thể hiểu được cục diện cơ bản và động thái phát triển của toàn bộ thị trường du lịch thế giới.
- Phân chia thị trường du lịch trong nước và thị trường du lịch quốc tế theo lãnh thổ quốc gia:
Du lịch trong nước là sự lưu động của nhân dân nước đó trong lãnh thổ nước mình, tạo thành một bộ phận của thị trường tiêu thụ và thị trường dịch vụ trong nước, ảnh hưởng đến sự lưu thông và thu hồi tiền tệ trong nước, còn du lịch quốc tế thì ảnh hưởng đến thu chi ngoại tệ của một quốc gia. Thị trường du lịch trong nước và thị trường du lịch quốc tế chế ước và ảnh hưởng lẫn nhau, trở thành thể thống nhất liên hệ chặt chẽ với nhau.
- Phân chia theo nội dung và hình thức của sản phẩm du lịch:
Có các thị trường du lịch như thị trường du lịch tham quan phong cảnh, thị trường du lịch nghỉ phép, thị trường du lịch hội nghị, thị trường du lịch dịch vụ, thị trường du lịch văn hóa, thị trường du lịch tôn giáo, thị trường du lịch du học, thị trường du lịch thể thao...Các đơn vị du lịch khai thác nhằm vào việc cung cấp sản phẩm du lịch khác nhau để thỏa mãn nhu cầu của các thị trường khác nhau.
- Phân chia theo hình thức tổ chức của hoạt động du lịch:
Gồm có thị trường du lịch đoàn thể và thị trường du lịch khách lẻ. Du lịch bao gói đoàn thể là hình thức tổ chức du lịch truyền thống là kết quả của việc phổ cập, phát triển hoạt động du khách, loại hình du lịch này sẽ phát triển ổn định ở thời gian tới, đồng thời do con người ngày càng theo đuổi cuộc sống tự do, cá nhân hóa, nên những năm gần đây thị trường du lịch khách lẻ phát triển với tốc độ nhanh.
Ngoài ra, còn có thể từ các góc độ khác nhau để chia thị trường du lịch như chia theo nước, theo tuổi, theo mùa vụ du lịch, chia theo khoảng cách du lịch...
1.1.5.2. Đặc điểm của thị trường du lịch:
Thị trường du lịch có các đặc điểm chủ yếu như sau :
- Sản phẩm của thị trường du lịch phần lớn là dịch vụ mang tính phi vật chất nên việc thực hiện chúng khác với thực hiện hàng hóa mang tính cụ thể.
- Đối tượng mua bán trên thị trường du lịch không có dạng hiện hữu trước người mua. Trên thị trường du lịch người bán không có hàng hóa du lịch tại nơi chào bán, không có khả năng mang được hàng hóa đến với khách hàng. Việc thực hiện hữu hóa, vật chất đối tượng mua bán trên thị trường du lịch, chủ yếu dựa vào xúc tiến quảng bá. Các khâu chào giá, lựa chọn, cân nhắc, trả giá, quyết định mua, bán sản phẩm thông qua quảng cáo và kinh nghiệm với việc mua bán thông thường. Thậm chí ngoài hàng hóa vật chất và dịch vụ, thị trường du lịch còn mua bán cả những đối tượng không hội đủ các thuộc tính của hàng hóa, đó là các giá trị nhân văn, tài nguyên du lịch thiên nhiên...
- Trên thị trường hàng hóa chung, quan hệ thị trường sẽ chấm dứt khi khách mua đã trả tiền-nhận hàng, nếu có kéo dài cũng chỉ là để bảo hành. Tuy nhiên, trên thị trường du lịch, quan hệ thị trường giữa người mua và người bán bắt đầu từ khi khách du lịch quyết định mua hàng đến khi khách trở về nơi thường trú của họ. Các sản phẩm du lịch nếu không được tiêu thụ, không bán được sẽ không có giá trị và không thể lưu kho.
- Thị trường du lịch mang tính thời vụ rõ rệt, thể hiện ở chổ cung hoặc cầu du lịch chỉ xuất hiện trong khoảng thời gian nhất định của một năm và điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan cũng như chủ quan và là một bài toán rất khó tìm ra lời giải.
Toàn bộ những đặc điểm thị trường du lịch đã trình bày ở trên đòi hỏi phải được nắm vững và lưu ý khi nghiên cứu và xây dựng chiến lược thị trường của doanh nghiệp, mỗi khu vực, mỗi quốc gia. Toàn bộ các mối quan hệ và cơ chế kinh tế trên thị trường du lịch đều phải được liên hệ với vị trí, thời gian, điều kiện và phạm vi của thực hiện hàng hóa. Điều quan trọng đối với du lịch quốc tế là để bán được một sản phẩm du lịch cần phải xác định cơ chế kinh tế, chính trị đối với một địa điểm cụ thể, một thời gian xác định và đối tượng khách hàng rõ ràng. Thông qua đặc điểm của thị trường du lịch mang tính thời vụ cao, trong việc xây dựng chiến lượng phát triển ngành du lịch cần nghiên cứu, khảo sát, đánh giá một cách đầy đủ để đa dạng hóa sản phẩm du lịch, nhằm thu hút đối tượng khách du lịch ngoài thời vụ chính ngày càng cao hơn.
1.1.6. Tài nguyên du lịch:
1.1.6.1. Khái niệm về tài nguyên du lịch:
Tài nguyên du lịch là cơ sở phát triển của ngành du lịch. Các nhân tố có thể kích thích động cơ du lịch của du khách được ngành du lịch tận dụng và từ đó sinh ra lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội thì đều được gọi là tài nguyên du lịch. Có thể nói đó là những nhân tố thiên nhiên, nhân văn và xã hội có sức thu hút du khách thì gọi chung là tài nguyên du lịch. Tài nguyên du lịch bao gồm tài nguyên du lịch đã khai thác và tài nguyên du lịch tiềm năng chưa khai thác.
1.1.6.2. Phân loại tài nguyên du lịch:
Phân loại tài nguyên du lịch là cơ sở vật chất và điều kiện tiền đề quan trọng nhất cho sự phát triển của ngành du lịch, tài nguyên du lịch thuộc loại tương đối đặc thù trong các loại tài nguyên. Trên thực tế, tài nguyên ngành du lịch là toàn bộ thế giới vật chất và toàn bộ lịch sử văn minh nhân loại, bao gồm:
- Tài nguyên du lịch cảnh quan: Xét về thuộc tính cơ bản của nó gồm có tài nguyên du lịch thiên nhiên, tài nguyên du lịch nhân văn và tài nguyên du lịch xã hội.
- Tài nguyên du lịch kinh doanh: Là những tài nguyên có liên quan với hoạt động kinh doanh du lịch, ta có thể chia ra tài nguyên du lịch có hạn và tài nguyên du lịch vô hạn. Tài nguyên du lịch có hạn và vô hạn bao gồm hai mặt thời gian và không gian. Tài nguyên du lịch sinh vật, tài nguyên du lịch khí hậu có thể nói là tài nguyên du lịch vô hạn, còn tài nguyên để ăn uống khi đi du lịch, tài nguyên công nghiệp hàng tiêu dùng du lịch, tài nguyên kiến trúc du lịch, tài nguyên nhân tài du lịch, cả thời gian hoặc không gian đều có hạn.
- Đổi mới tài nguyên du lịch: Về góc độ tận dụng tài nguyên, ta có thể chia ra tài nguyên du lịch có tính chất đổi mới và tài nguyên du lịch có tính chất không thể đổi mới. Loại tài nguyên du lịch có tính đổi mới chỉ các tài nguyên du lịch bị tiêu hao hết trong quá trình hoạt động du lịch nhưng vẫn có thể thông qua tác dụng của thiên nhiên hay tác động đến hoạt động kinh doanh mà được sử dụng nhiều lần như tài nguyên khí hậu phong cảnh, sinh vật cảnh và các sản phẩm du lịch…Tài nguyên du lịch không thể đổi mới là những loại trong quá trình hoạt động du lịch bị phá hoại bởi con người, mặc dù có kế hoạch khôi phục lại nhưng giá trị du lịch vốn đã có bị giảm rất nhiều, như đá
tượng hình thành tự nhiên và kiến trúc cổ, di vật còn lại trong quá trình phát triển lịch sử lâu dài...
1.1.6.3. Đặc điểm tài nguyên du lịch:
Thông qua quan sát và phân tích, đặc điểm của tài nguyên du lịch có thể khái quát như sau:
- Tính đa dạng: Tài nguyên du lịch là một khái niệm có hàm ý rộng, nếu cấu thành nhân tố môi trường hấp dẫn du khách thì đều có thể trở thành tài nguyên du lịch. Về hình thức biểu hiện, tài nguyên du lịch cũng có đặc điểm đa dạng, có thể là tự nhiên mà cũng có thể là nhân văn xã hội, có thể là lịch sử mà cũng cò thể là đương đại, có thể là hữu hình và cũng có thể là vô hình.
- Tính tự nhiên: Tài nguyên du lịch tự nhiên là do thiên nhiên hình thành, văn vật lịch sử là do lịch sử để lại, truyền thống phong tục dân tộc được từng bước hình thành, thành tựu kiến trúc hiện đại được sáng tạo nên nhằm thích ứng với sự phát triển của xã hội và kinh tế.
1.1.7. Vai trò ngành du lịch đối với sự phát triển kinh tế-xã hội :
Trong quá trình hoạt động du lịch đòi hỏi phải có một số lượng lớn vật tư hàng hóa để phục vụ du khách. Ngoài ra việc khách du lịch đem tiền kiếm được từ nơi khác đến chi tiêu ở vùng du lịch, làm tăng nguồn thu của vùng và của đất nước du lịch, góp phần làm cho kinh tế của vùng du lịch và của đất nước phát triển.
Ngành du lịch phát triển còn là động lực thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh của nhiều ngành khác trong nền kinh tế quốc dân như: ngành nông nghiệp, ngành sản xuất vật tư xây dựng, ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, ngành tiểu thủ công nghiệp…
Do nhu cầu của khách du lịch là rất đa dạng và phong phú cho nên ngành du lịch tạo điều kiện cho các ngành đa dạng hóa sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ ngay tại chỗ giúp cho quá trình lưu thông được nhanh hơn, tăng vòng quay của vốn, từ đó sử dụng vốn có hiệu quả hơn.
Ngành du lịch phát triển còn thúc đẩy sự phát triển của các ngành giao thông vận tải, bưu điện, ngân hàng, xây dựng…thông qua việc du khách trực tiếp sử dụng các dịch vụ của các ngành này như dịch vụ vận chuyển, dịch vụ bưu điện. dịch vụ đổi tiền. Còn các cơ sở kinh doanh du lịch cũng tiêu thụ phần
lớn các sản phẩm của các ngành này như các công trình xây dựng, dịch vụ bưu
điện…
Hoạt động của ngành du lịch còn góp phần làm tăng thu nhập quốc dân, thông qua việc sản xuất, chế biến các đồ ăn, thức uống phục vụ du khách và bán các mặt hàng lưu niệm…mà hoạt động du lịch góp phần tạo ra thu nhập quốc dân, làm tăng thu nhập quốc dân.
Phát triển du lịch quốc tế chủ động đem lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước. Ở các nước du lịch phát triển, nguồn thu ngoại tệ từ du lịch quốc tế chiếm đến 20% trong tổng nguồn thu ngoại tệ của đất nước. Ngoại tệ thu được từ du lịch quốc tế góp phần cải thiện cán cân thanh toán thương mại của quốc gia.
Ngoài ra, du lịch được xem là ngành xuất khẩu tại chỗ đem lại hiệu quả kinh tế cao là do:
- Một phần lớn đối tượng mua bán trong du lịch quốc tế là các dịch vụ (lưu trú, bổ sung, trung gian…). Do vậy “ xuất khẩu “ du lịch là xuất khẩu các dịch vụ, đó là điều mà ngoại thương không thực hiện được. Ngoài ra, đối tượng xuất khẩu của du lịch quốc tế còn là hàng ăn uống, hoa quả, rau xanh, hàng lưu niệm…là những mặt hàng rất khó xuất khẩu theo đường ngoại thương. Việc xuất khẩu bằng du lịch quốc tế luôn đem lại doanh thu cao hơn so với xuất khẩu ngoại thương. Vì hàng hóa trong du lịch được bán theo giá bán lẻ, nhiều khi còn bán theo giá độc quyền, trong khi đó hàng xuất khẩu ngoại thương thì xuất theo giá bán buôn và nhiều nơi giá xuất còn thấp hơn so với giá thành, do đó nhiều khi bị lỗ. Mặt khác, xuất khẩu du lịch quốc tế còn tiết kiệm được chi phí vận chuyển, chi phí bảo hiểm, không phải chịu thuế xuất nhập khẩu và tránh được rũi ro trên đường vận chuyển.
Xuất khẩu du lịch là xuất khẩu “vô hình” có ưu điểm là chỉ bán cho du khách quốc tế quyền được cảm nhận giá trị tài nguyên du lịch tại một điểm du lịch, còn các tài nguyên du lịch vẫn còn nguyên giá trị.
Du lịch phát triển còn kích thích đầu tư. Do du lịch là ngành được tạo nên bởi rất nhiều các doanh nghiệp nhỏ và nhiều loại hình dịch vụ khác nhau nên sự đầu tư của nhà nước vào cơ sở hạ tầng (đường sá, công viên…) và một số kiến trúc thượng tầng ( nghệ thuật, lễ hội, văn hóa dân gian…) nhằm tạo điều kiện cho du lịch phát triển sẽ kích thích sự đầu tư rộng rãi của các tầng lớp nhân dân, của doanh nghiệp nhỏ và cả đầu tư từ nước ngoài.