Cơ Sở Lý Luận Và Thực Tiễn Về Phát Triển Du Lịch Theo Hướng Bến Vững

Hình 1 3 Mô hình nghiên cứu đề xuất Nguồn Bùi Thanh Toàn 2018 Sau khi tổng 1

Hình 1. 3 Mô hình nghiên cứu đề xuất


Nguồn: Bùi Thanh Toàn (2018)

Sau khi tổng hợp tình hình nghiên cứu ở nước ta trong thời gian qua, luận án rút ra những nhận định sau:

- Du lịch là ngành có vị trí quan trọng, trung tâm phát triển kinh tế của nhiều quốc gia và của hệ thống ngành kinh tế quốc dân. Do vậy, nhiều cá nhân (nhà khoa học, nhà quản lý, người dân) và các tổ chức đều quan tâm nghiên cứu. Ở Việt Nam chủ đề PTBV nói chung và du lịch nói riêng bắt đầu được nghiên từ những năm 90, và đến nay trở nên khá phổ biến. Không những thế, sau khi mở cửa và hội nhập với thế giới từ những năm 90, du lịch Việt Nam là chủ đề hấp dẫn của nhiều đề tài nghiên cứu trong và ngoài nước trong giới khoa học. Phát triển du lịch theo hướng bền vững không chỉ là định hướng nghiên cứu, phát triển trên thế giới mà cũng là tâm điểm nghiên cứu của các nhà khoa học trong nước. Hiện nay các công trình nghiên cứu về phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam khá đa dạng từ sản phẩm du lịch, điểm du lịch, khu bảo tồn, vùng du lịch.

- Các công trình nghiên cứu về du lịch, phát triển du lịch giải quyết nhiều vấn đề từ lý luận chung về du lịch, đến kiến thức thực tế về thị trường du lịch và từ đó có các phương hướng phát triển du lịch phù hợp với Việt Nam.

- Nghiên cứu trong nước hay nước ngoài đều nêu nội dung phát triển du lịch theo hướng bền vững đều xoay quanh 3 góc độ: Kinh tế, xã hội, môi trường. Mỗi góc độ có thể đóng vai trò quan trọng khác nhau trong từng giai đoạn, thời kỳ của quá trình phát triển, phù hợp với chủ trương và chính sách của quốc gia, địa phương du lịch.

1.3 Đánh giá chung về các công trình nghiên cứu

1.3.1 Đánh giá chung

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.

Thứ nhất, xác định được những vấn đề cơ bản về du lịch, phát triển du lịch, du

lịch bền vững, nội hàm liên quan đến PTBV du lịch; khái niệm PTBV, PTDLBV, quản lý du lịch… Có rất nhiều quan điểm khác nhau về nội dung này kể cả trong nước và quốc tế.

Thứ hai, xu hướng chung là phát triển du lịch theo hướng bền vững ở các quốc gia trên thế giới hiện nay. Có nhiều kinh nghiệm khác nhau với mục tiêu phát triển du lịch theo hướng bền vững của một số địa phương ở Việt Nam và các nước trên thế giới.

Thứ ba, đã phân tích, đánh giá tính hệ thống và tính bền vững của du lịch. Vai trò của phát triển du lịch bền vững đối với sự phát triển của đất nước, của vùng, của địa phương.

Thứ tư, thực trạng về phát triển du lịch theo hướng bền vững ở một số tỉnh của Việt Nam như Lào Cai, Phong Nha Kẻ Bàng, vườn quốc gia Cúc Phương (Ninh Bình), của các vùng du lịch Đông Bắc Bộ, Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ được nghiên cứu phân tích sâu.

Thứ năm, một số giải pháp PTBV du lịch được đưa ra: Quy hoạch, quản lý và tổ chức thực hiện quy hoạch du lịch; đa dạng hoá các sản phẩm du lịch; đầu tư phát triển du lịch; những cơ chế chính sách thu hút, nâng cao hiệu quả nguồn vốn đầu tư để phát triển du lịch; nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực du lịch.

1.3.2. Những vấn đề đặt ra cần nghiên cứu

Vấn đề phát triển du lịch theo hướng bền vững ở các tỉnh lân cận như Ninh Bình, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Nội được nghiên cứu ở rất nhiều công trình. Với mỗi công trình đều có cách tiếp cận khác nhau về phương pháp, tiêu chí. Trong điều kiện hiện nay, khi các tỉnh đã và đang hướng đến khai thác các loại hình du lịch để thúc đẩy kinh tế địa phương thì chiến lược, mục tiêu cho du lịch đã có nhiều thay đổi. Tiềm năng du lịch được khai thác, cùng với sự thay đổi của thị trường du lịch, đối tượng khách du lịch, cách thức trong quản lý lịch nên liên kết và hợp tác trong phát triển du lịch đều được các địa phương hướng tới và triển khai trong thời gian qua. Đánh giá phát triển du lịch theo hướng bền vững ở các tỉnh Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình dựa trên các tiêu chí, nhân tố tác động chưa có công trình nào đề xuất. Trên cơ sở tổng quan các công trình nghiên cứu về phát triển du lịch và PTDLBV, luận án tập trung vào các vấn đề:

Một là, làm rõ vấn đề lý luận về phát triển du lịch và phát triển du lịch theo hướng bền vững trong bối cảnh trong nước và quốc tế. Các tiêu chí đánh giá và các nhân tố tác động đến phát triển du lịch theo hướng bền vững.

Hai là, kinh nghiệm PTDLBV ở một số vùng, lãnh thổ và các nước trên thế giới, đồng thời rút ra một số bài học kinh nghiệm phát triển du lịch theo hướng bền vững cho các tỉnh phía nam ĐBSH.

Ba là, xây dựng và đánh giá theo tiêu chí phát triển du lịch theo hướng bền

vững cho các tỉnh

Bốn là, nghiên cứu thực trạng và đánh giá các nhân tố tác động đến du lịch theo hướng bền vững. Rút ra được những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của những tồn tại từ đó tập trung nghiên cứu, đưa ra các giải pháp cụ thể phát triển du lịch cho vùng theo hướng bền vững; phù hợp với Hiến chương Bảo vệ Di sản Thế giới của Liên hợp quốc.

Với các vấn đề đặt ra như vậy, nghiên cứu sinh sẽ xác định bối cảnh, định hướng và giải pháp nhằm phát triển du lịch ở các tỉnh phía nam ĐBSH theo hướng bền vững, góp phần vào sự phát triển KT - XH của vùng ĐBSH nói riêng và vùng kinh tế duyên hải Bắc Bộ nói chung.

Tiểu kết chương 1

- Phát triển du lịch là đề tài được rất nhiều nhà khoa học, nhà quản lý, các tổ chức trên Thế giới cũng như ở nước ta quan tâm nghiên cứu.

- Có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến du lịch, phát triển du lịch và PTDLBV và xác định PTDLBV là xu hướng ở các quốc gia trên thế giới hiện nay.

- Nhiều khái niệm, tiêu chí để đánh giá phát triển bền vững từ đó các giải pháp PTBV du lịch được đưa ra: Quy hoạch, quản lý và tổ chức thực hiện quy hoạch du lịch; đa dạng hoá các sản phẩm du lịch; đầu tư phát triển du lịch; những cơ chế chính sách thu hút, nâng cao hiệu quả nguồn vốn đầu tư để phát triển du lịch; nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực du lịch. Và tất cả các giải pháp đều hướng tới mục tiêu PTDLBV, tạo công ăn việc làm cho người dân, bảo vệ tài nguyền môi trường và bảo tồn các giá trị văn hóa – xã hội.

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH THEO HƯỚNG BẾN VỮNG


2.1 Cơ sở lý luận về du lịch

2.1.1 Khái niệm

Trong cuộc sống của mình, mỗi người đều có những nhu cầu nhất định. Những nhu cầu đó có thể được đáp ứng ngay tại nơi ở (hay nơi cư trú) của bản thân họ, nhưng cũng có không ít nhu cầu chỉ có thể được thỏa mãn ngoài nơi ở thông qua các cách thức tổ chức thực hiện khác nhau. Một trong số cách thức tổ chức đó là một người hoặc nhóm người thực hiện những chuyến đi du lịch. Nhưng từ thế kỷ XIX, du lịch được coi là dành cho tầng lớp giàu có, quý tộc. Khi đó, mọi người xem du lịch như là một hiện tượng xã hội làm phong phú thêm cuộc sống và sự nhận thức của con người.

Du lịch manh nha xuất hiện từ thời kỳ Ai Cập và Hy lạp cổ đại thông qua các chuyến đi gặp gỡ, buôn bán của các nhà chính trị và thương gia. Các chuyến đi đó là do nhu cầu về kinh tế và lợi ích của từng cá nhân nên họ tổ chức một cách ngẫu hứng. Sang thời kỳ văn minh La mã, nhu cầu du lịch có mục đích hơn và các ngôi đền nổi tiếng là mục đích tham quan của người La mã khi họ tổ chức các chuyến đi chơi hoặc công việc. Hướng đến của họ là Kim tự tháp ở Ai Cập, hay các ngôi đền ở Địa Trung Hải. Đến thời kỳ phong kiến, khi mà lễ hội, công trình vui chơi được tổ chức và xây dựng nhiều, con người lúc này làm việc luôn hướng vào các hoạt động được tổ chức trong tháng, trong năm. Các tầng lớp vua chúa, quan lại, địa chủ ưa thích hoạt động lễ hội, ngắm cảnh, giải trí, đến các khu vực có giá trị chữa bệnh và phục hồi sức khoẻ; còn người dân lao động lại ưa thích tổ chức, tham gia các lễ hội dân gian, tế lễ phục vụ mùa màng. Bước sang thời kỳ cận đại, thời kỳ hưng thịnh, giàu có của tư bản và giới quý tộc nên phần lớn thị trường du lịch là đáp nhu cầu của họ. Và kinh doanh du lịch đã cơ bản hình thành nhưng chủ yếu ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Với đà phát triển đó, ngày nay du lịch đã trở thành một xu thế tất yếu, phổ biến và là ngành kinh tế hàng đầu ở nhiều quốc gia, nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trở nên giàu có và thay đổi nhờ vào phát triển du lịch.

Qua nghiên cứu các định nghĩa về du lịch từ trước tới nay có thể thấy mỗi định nghĩa về du lịch gắn với một giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ phát triển của ngành ở giai đoạn đó. “Sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động làm cho du lịch trở thành một hoạt động kinh tế. Du lịch với tư cách là một ngành kinh tế thực sự xuất hiện giữa thế kỷ XIX.” [10]. Tuy nhiên, hiện nay nội dung về du lịch vẫn được hiểu theo nhiều hướng khác nhau cả trong nước và ngoài nước. Sau đây là một số khái niệm về du lịch:

Định nghĩa đầu tiên về du lịch vào năm 1811 tại Anh như sau “Du lịch là sự phối hợp nhịp nhàng giữa lý thuyết và thực hành của (các) cuộc hành trình với mục

đích giải trí. Ở đây sự giải trí là động cơ chính” [10, tr13].

Tháng 6/1991, định nghĩa về du lịch “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường thường xuyên (nơi ở thường xuyên của mình), trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của chuyến đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm”. [10, tr15] được đưa ra tại hội nghị quốc tế về thống kê du lịch tổ chức tại Otawa (Canada).

Theo nhà kinh tế học người Mỹ, Michael Coltma “Du lịch là sự kết hợp và tương tác của 4 nhóm nhân tố trong quá trình phục vụ du khách bao gồm: du khách, nhà cung ứng dịch vụ, cư dân sở tại và chính quyền nơi đón khách du lịch” [10, tr15].

Sau khi đã nghiên cứu và tập hợp các ý kiến về du lịch, định nghĩa về du lịch trong giáo trình kinh tế du lịch của trường Đại học Kinh tế quốc dân phục vụ cho chuyên ngành kinh doanh du lịch như sau “Du lịch là một tập hợp các hoạt động tích cực của con người nhằm thực hiện một dạng hành trình, là một công nghiệp liên kết nhằm thỏa mãn các nhu cầu của khách du lịch…Du lịch là cuộc hành trình mà một bên là người khởi hành với mục đích đã được chọn trước và một bên là các công cụ làm thỏa mãn nhu cầu của họ.” [10, tr14].

Một số quan điểm về du lịch khác “Du lịch là một ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động tổ chức hướng dẫn, sản xuất, trao đổi hàng hóa và dịch vụ của những doanh nghiệp, nhằm đáp ứng các nhu cầu đi lại, lưu trú, ăn uống… và các nhu cầu khác của khách du lịch. Các hoạt động đó phải đem lại lợi ích chính trị, kinh tế - xã hội thiết thực cho nước làm du lịch và cho bản thân doanh nghiệp.”[9,tr 17]. Điều 3 - Luật du lịch Việt Nam năm 2017 [33] “Du lịch các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác”.

Từ những khái niệm trên, nhận thấy rằng du lịch là một hoạt động đa dạng, đặc thù, liên quan đến nhiều đối tượng như khách du lịch, phương tiện giao thông,... và nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội khác nhằm đem lại các lợi ích về kinh tế, chính trị, xã hội cho các quốc gia, địa phương. Tuy nhiên sự tác động của hoạt động du lịch đến các địa phương, vùng lãnh thổ và các quốc gia còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: cơ chế chính sách phát triển du lịch, loại hình du lịch, sản phẩm du lịch và các tài nguyên du lịch của từng vùng.

2.1.2 Đặc điểm du lịch

Thứ nhất, Du lịch là ngành phụ thuộc vào tài nguyên du lịch. Bất cứ một du khách nào, với động cơ và hình thức du lịch ra sao thì yêu cầu có tính phổ biến phải đạt được đối với họ là được tham quan, vui chơi giải trí, tìm hiểu thưởng thức các giá trị về thiên nhiên, lịch sử, văn hoá, xã hội …của một xứ sở. Đó là các bãi biển đầy ánh nắng, các thác nước, các núi non hang động kỳ thú, các giống loài động thực vật quý

hiếm, các thành quách lâu đài, các đền chùa với nhiều kiến trúc cổ và những ngày lễ hội; các trung tâm kinh tế, văn hoá lớn; các rừng quốc gia, các khu di tích…

Tài nguyên du lịch có loại do tự nhiên tạo ra nhưng có loại do quá trình phát triển lịch sử qua nhiều thế hệ của con người tạo ra. Đây chính là cơ sở khách quan để hình thành nên các tuyến, điểm du lịch nhằm định hướng, phát triển du lịch của mỗi vùng, mỗi quốc gia.

Thứ hai, du lịch là ngành kinh doanh tổng hợp phục vụ nhu cầu tiêu dùng đa dạng của khách du lịch. Những người đi du lịch dù thuộc đối tượng nào và với nguồn tiền của cá nhân hay tập thể thì trong thời gian đi du lịch, mức tiêu dùng của họ thường cao hơn so với tiêu dùng bình quân của đại bộ phận dân cư. Chưa kể một bộ phận lớn khách du lịch quốc tế là các tầng lớp thượng lưu: những thương gia, những nhà kinh doanh, trí thức, chính khách… giàu có. Vì vậy ngành du lịch, phải là một ngành kinh doanh tổng hợp phục vụ cho các nhu cầu về nghỉ ngơi, đi lại, ăn uống, tham quan, giải trí, mua hàng và các dịch vụ khác của khách sao cho vừa thuận tiện, an toàn,vừa sang trọng, lịch sự và có khả năng đáp ứng các nhu cầu dịch vụ ở mức độ cao cấp.

Thứ ba, du lịch là ngành ngoài kinh doanh và dịch vụ ra còn phải bảo đảm nhu cầu an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội cho du khách, cho địa phương và các nước đón nhận du khách. Mỗi địa điểm khách du lịch đến cần phải huy động nhiều lực lượng, cơ sở vật chất để phục vụ từ việc đảm bảo chỗ ăn, ở, vệ sinh an toàn thực phẩm còn đến cả an ninh, trật tự xã hội. Vì vậy cần sự đầu tư đồng bộ và phối hợp liên ngành thật nhịp nhàng và hiệu quả.

Thứ tư, ngành du lịch là một ngành kinh tế - xã hội - dịch vụ có nhiệm vụ phục vụ nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ ngơi, có hoặc không kết hợp với các hoạt động chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và các dạng nhu cầu khác. Như vậy đây là một ngành đặc biệt có nhiều đặc điểm và tính chất pha trộn nhau tạo thành một tổng thể rất phức tạp. Hoạt động của ngành du lịch vừa mang đặc điểm của một ngành kinh tế, vừa mang đặc điểm của một ngành văn hoá - xã hội.

2.2 Phát triển du lịch theo hướng bền vững

2.2.1 Phát triển bền vững

Năm 1987, vấn đề liên quan giữa môi trường với phát triển được hội nghị của WCED đề cập chính thức. Nhà kinh tế học Brundtland đã đưa ra một bản báo cáo đó là Tương lai chung của chúng ta thể hiện được những nhận biết, quan điểm vai trò của môi trường đến phát triển kinh tế và các vấn đề xã hội của mỗi quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau. Trong quá trình tăng tốc cho nền kinh tế, mỗi quốc gia đều có mục tiêu lớn nhất đó là cải thiện chất lượng cuộc sống (cả vật chất lẫn tinh thần) cho người dân. Tuy nhiên, để làm được điều đó cần phải thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động kinh tế phát triển nhưng đánh đổi lại là nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, môi trường bị ô nhiễm, hệ sinh thái bị hủy hoại. Nguồn tài nguyên thiên nhiên mà chúng ta có được là hữu hạn, nếu khai thác bừa bãi, không khoa học, không có tổ chức sẽ làm

cạn kiệt và nguy hiểm hơn là khiến cho môi trường sống chịu những tổn thương nặng nề. Và người chịu tác động trực tiếp chính là thế hệ tương lại của chúng ta, con cháu chúng ta. Từ nhận thức đó khái niệm về PTBV xuất hiện và là chủ đề ngày càng nóng trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay. Chủ đề PTBV được quan tâm ở tất cả các quốc gia trên thế giới từ các nước phát triển, các nước đang phát triển, là kim chỉ nam định hướng phát triển trong kế hoạch và đường lối phát triển của quốc gia.

Dưới cách tiếp cận khác nhau có rất nhiều khái niệm PTBV được các nhà nghiên cứu, quản lý đưa ra. Theo IUCN đưa ra vào năm 1980 thì PTBV phải cân nhắc đến hiện trạng khai thác các nguồn tài nguyên tái tạo và không tái tạo, đến các điều kiện thuận lợi cũng như khó khăn trong việc tổ chức các kế hoạch hành động ngắn hạn và dài hạn đan xen nhau. Khái niệm này tập trung nhấn mạnh đến việc khai thác và sử dụng tài nguyên nhưng chưa đưa ra cách nhìn đầy đủ về PTBV. Khái niệm do UNCED đưa ra năm 1987 được sử dụng phổ biến hơn, PTBV thỏa mãn những nhu cầu của hiện tại nhưng không làm giảm khả năng thỏa mãn nhu cầu của các thế hệ tương lai.

Tại Rio de Janeiro (Brazin) năm 1992, hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc về PTBV được tổ chức khái niệm PTBV được đề cập, đến lần tổ chức năm 1997 các nhà khoa học đã bổ sung thêm các quan niệm về PTBV. Theo đó, Phát triển bền vững được hình thành trong sự hòa nhập, đan xen và thỏa hiệp của 3 hệ thống tương tác là hệ tự nhiên, hệ kinh tế và hệ văn hoá - xã hội. Theo quan điểm này, PTBV là sự tác động và phụ thuộc lẫn nhau của ba yếu tố là kinh tế, văn hóa – xã hội và môi trường tự nhiên. Sự tương tương giữa ba hệ thống này đòi hỏi cân bằng, “không vì sự ưu tiên phát triển của hệ này mà gây ra sự suy thoái, tàn phá đối với hệ khác” [55]. Thông điệp của hội nghị: PTBV không chỉ ưu tiên tăng trưởng kinh tế mà có điểm tựa là bền vững cả về môi trường - tự nhiên, văn hoá - xã hội. PTBV giống chiếc kiềng ba chân, ba chân này cụ thể là:

- Sự bền vững về kinh tế: Tạo nên sự tăng trưởng và sung túc cho cộng đồng dân cư và các doanh nghiệp kinh tế nhằm đạt được kết quả và hiệu quả cao. Vấn đề cốt lõi là sự tồn tại và phát triển của các đơn vị kinh tế ổn định và lâu dài.

- Sự bền vững văn hóa – xã hội: các cá nhân, dân tộc, tôn giáo luôn luôn được tôn trọng và bình đẳng. Quyền lợi được đảm bảo công bằng, xóa đói giảm nghèo được chú trọng. Tôn trọng các giá trị văn hóa của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền. Các di tích được bảo tồn, tồn tạo và gìn giữ đúng giá trị của nó.

- Sự bền vững về môi trường: nguồn tài nguyên khai thác, phân bổ và sử dụng đúng mức; hạn chế đến mức tối thiểu sự ô nhiễm môi trường, bảo tồn sự đa dạng sinh học và các tài sản thiên nhiên khác.

Hội nghị về PTBV trên thế giới diễn ra trong các năm tiếp theo, mỗi lần tổ chức đều nhắc lại và xác định các mục tiêu mà PTBV hướng tới. Cụ thể, năm 2002, hội nghị thượng đỉnh thế giới về PTBV đã nhắc lại các mục tiêu xã hội và môi trường được

phản ánh trong “Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ và CTNS 21” (Chương trình nghị sự). Năm 2012, hội nghị cấp cao của Liên hợp quốc về PTBV đề cập đến vấn đề chính trị tác động đến PTBV, đặt ra những mục tiêu PTBV cần xây dựng chung cho tất cả quốc gia. Bắt đầu từ tháng 9/2013, những mục tiêu PTBV bắt đầu được triển khai bằng những đàm phán của các chính phủ về CTNS mới dùng cho từ năm 2015 với bộ 17 mục tiêu và 169 chỉ tiêu PTBV. Tại kỳ họp lần thứ 70 vào tháng 9/2015 vào tháng 9/2015, 154 quốc gia thành viên của đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua chương trình nghị sự PTBV đến năm 2030. Chương trình gồm 17 mục tiêu PTBV, trong đó có một số mục tiêu quan trọng như xóa đói nghèo, bảo vệ hành tinh, đảm bảo thịnh vượng chung cho tất cả. CTNS 2030 dựa trên CTNS 21 về PTBV và các “mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ” (MDGs).

2.2.2 Phát triển du lịch theo hướng bền vững

2.2.2.1 Khái niệm phát triển du lịch theo hướng bền vững

PTDLBV và PTBV có mối quan hệ khăng khít, bổ sung cho nhau. Cả hai khái niệm PTBV và PTDLBV đều liên quan đến tài nguyên – môi trường… Môi trường ở đây được hiểu rất rộng bao gồm từ tự nhiên, kinh tế, văn hóa, đến chính trị và xã hội, do vậy là yếu tố đặc biệt trong phát triển du lịch. Từ môi trường du lịch, mỗi địa phương có thể tạo được những sản phẩm du lịch riêng biệt, độc đáo phù hợp với văn hóa và lịch sử phát triển của địa phương. Cho nên bảo vệ môi trường là bảo đảm cho sự phát triển bền lâu, bảo đảm những giá trị cốt lõi để giúp thành công. Phát triển du lịch gắn với gìn giữ, bảo tồn tài nguyên; gìn giữ bảo vệ môi trường. Do vậy, phát triển du lịch theo hướng bền vững là xu thế phát triển tất yếu và tiệm cận với xu thế chung của thế giới.

Bên cạnh việc phát triển du lịch gần gũi, thân thiện với môi trường, khái niệm phát triển du lịch theo hướng bền vững còn bao hàm cả vai trò của dân cư địa phương; cách quản lý, thu hút, sử dụng lao động và kỳ vọng tối đa hóa lợi ích kinh tế của du lịch cho dân và lao động địa phương. Nói cách khác, du lịch bền vững bên cạnh vấn đề môi trường, còn hướng tới là ổn định và đảm bảo phát triển kinh tế trong dài hạn, công bằng các lợi ích xã hội. Du lịch bền vững không thể tách rời PTBV.

Tại Rio de Janeiro (Brazin) năm 1992, Liên hợp quốc đã tổ chức hội nghị về môi trường và phát triển, ở đó UNWTO đã định nghĩa: “Du lịch bền vững là việc phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu hiện tại của khách du lịch và người dân bản địa trong khi vẫn quan tâm đến bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên cho việc phát triển hoạt động du lịch trong tương lai. Du lịch bền vững sẽ có kế hoạch quản lý các nguồn tài nguyên nhằm thoả mãn các nhu cầu về kinh tế, xã hội, thẩm mỹ của con người, trong khi đó vẫn duy trì được sự toàn vẹn về văn hoá, đa dạng sinh học, sự phát triển của các hệ sinh thái và các hệ thống hỗ trợ cho cuộc sống con người”.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 09/03/2023