Cơ Sở Vật Chất – Kỹ Thuật (Lưu Trú; Ăn Uống; Vui Chơi Giải Trí)


cũng được quan tâm đầu tư, nâng cấp và mở rộng nhằm đảm bảo lưu thông thông suốt trong tỉnh.

Giao thông đường thủy

Hai con sông Tiền và sông Hậu là hai trục giao thông thủy quan trọng của cả vùng, cùng các sông nhánh nối liền Đồng Tháp với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long khác.

Hệ thống đường thủy thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa và đi lại bằng ghe thuyền nhưng phần nhiều các bến bãi chưa được cải tạo, luồng lách chưa được nạo vét, độ rộng, độ sâu, hạn chế, gây trở ngại cho việc lưu thông tàu thuyền, năng lực thông qua chưa cao.

Trong nhiều năm qua vận chuyển hàng hóa bằng đường sông từ Đồng Tháp đến các địa phương chiếm 1 tỷ lệ đáng kể, nhất là trong mùa mưa lũ, bình quân lượng hàng hóa vận chuyển đường thủy một năm khoảng trên 120 nghìn tấn. Tuy nhiên, việc đầu tư quy hoạch phát triển vận chuyển đường sông hầu như chưa có gì, đặc biệt công tác tổ chức vận chuyển hành khách bằng đường sông chưa được quan tâm đúng mức. Nhìn chung, cơ sở hạ tầng đường sông cũng như phương tiện vận chuyển còn nhiều yếu kém cả về độ an toàn lẫn tính hấp dẫn. Thực tế vận chuyển đường sông chưa đủ điều kiện và khả năng cạnh tranh với các loại hình vận chuyển hành khách phục vụ khách du lịch.

Hiện nay, tỉnh đang mở thêm các tuyến đường sông như tuyến rạch Cái Tàu

– Nha Mân (tuyến chữ V) nối với tỉnh Vĩnh Long, tuyến Mương Khai với cảng Cần Thơ, tuyến kinh trục Đồng Tiến – Lagrange để tạo lập một trục đường thủy trung tâm tỉnh và trục liên tỉnh đường dài. Đồng thời đầu tư nâng cấp, mở rộng các bến tàu, bến phà, bến khách ngang sông theo hướng hiện đại, văn minh, đáp ứng ngày càng tốt cho nhu cầu vận chuyển hàng hóa, đi lại của nhân dân.

Tiếp tục đầu tư đổi mới trang thiết bị cảng Đồng Tháp, xây dựng hoàn chỉnh phần cảng Sa Đéc, phục vụ kịp thời theo nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa nông, thủy sản, nhu cầu xuất nhập khẩu của khu công nghiệp Sa Đéc.


Hệ thống cung cấp điện:

Toàn tỉnh đạt 100% số xã đã có điện lưới, năm 2005 nhu cầu điện năng của tỉnh nhận từ lưới điện quốc gia khoảng 53 triệu Kwh, tăng bình quân 15,7%/năm; tỷ lệ tổn thất điện năng 11% ( năm 2000 là 12,5%); điện thương phẩm khoảng 477 triệu Kwh, bình quân điện thương phẩm/ người là 281 Kwh ( năm 2000 là 142 Kwh); 90 % hộ sử dụng điện lưới, 100% cơ sở sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp có điều kiện sử dụng điện lưới, trên 40% hệ thống thủy lợi sử dụng bơm điện.

Trong đó, cơ cấu điện thương phẩm: Nông nghiệp 4,6 %, công nghiệp 35,6%, thương nghiệp – dịch vụ 1,0%, ánh sáng sinh hoạt 56%, khác 2,9%. Tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được cho nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của dân cư, đặc biệt vào mùa khô.

Trong những năm tới, Nhà nước có nhiều dự án phát triển mạng lưới điện mới, năm 2010 có sản lượng khoảng trên dưới 50 tỷ Kwh. Ngoài việc xây dựng nhiều nhà máy sản xuất điện, một số dự án cải tạo, nâng cấp hiện đại hóa cở sở hạ tầng phân hóa, cung cấp điện bằng vốn vay ODA đã được triển khai.

Cùng với sự phát triển kinh tế, mức tiêu thụ điện nặng sẽ có tốc độ tăng cao hơn tốc độ tăng của nền kinh tế. Do vậy, việc đảm bảo nhu cầu điện năng cho phát triển kinh tế, đáp ứng nhu cầu điện khí hóa nông thôn, đưa điện đến 100% số hộ trên toàn tỉnh, cung cấp đủ điện và giảm giá điện bán cho nông dân ngày càng trở nên cấp bách.

Hệ thống cấp, thoát nước:

Nguồn nước:

- Nước mặt: Đồng Tháp có sông Tiền và sông Hậu cùng hệ thống kênh rạch chằng chịt là đường dẫn tải và tiêu nước chính của tỉnh.

Nhìn chung nguồn nước mặt ít và không đáp ứng được các nhu cầu sản xuất và sinh hoạt. Chỉ có 3 nhà máy nước sử dụng nước mặt là Hồng Ngự, Tam Nông và thị xã. Sa Đéc.


- Nước ngầm: Trữ lượng nước ngầm của Đồng Tháp tương đối dồi dào và chất lượng tốt. Chương trình nước sạch do UNICEF tài trợ đã giúp khoan được một số giếng tại những điểm thiếu nước sạch.

Tình hình cung cấp nước:

Cung cấp nước sạch cho Đồng Tháp còn rất hạn chế chủ yếu nhờ vào các nhà máy nước Cao Lãnh, Sa Đéc và một số trạm cấp nước đặt tại các trung tâm huyện lỵ. Nhà máy nước Cao Lãnh có công suất 12.000m2/ ngày đêm cung cấp nước cho trên 170.000 dân của thành phố Cao Lãnh và vùng phụ cận. Nhà máy nước Sa Đéc công suất 8.000 m3/ ngày đêm cung cấp nước cho trên 100.000 dân của thị xã Sa Đéc.

Ở các vùng nông thôn nước sinh hoạt phụ thuộc vào các nguồn sẵn có, nước không qua xử lí nên chưa bảo đảm chất lượng vệ sinh. Hệ thống thoát nước chủ yếu là nhờ thoát nước mặt và không qua xử lí.

Đến nay, tỉnh đã có nhiều dự án nhằm phát triển hệ thống cung cấp và thoát nước đảm bảo cho nhu cầu sử dụng.

+ Cấp nước đô thị: Đầu tư cải tạo, phát triển hệ thống cấp nước đô thị ở thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ, khu công nghiệp. Đến năm 2005 có 18 nhà máy cấp nước tổng công suất khoàng 90.000 m3/ ngày đêm, có khả năng cung cấp nước sạch cho trên 90% dân số đô thị, theo định mức 120 lít/ ngày/người.

+ Cấp nước nông thôn: Kết hợp cả 3 nguồn nước ( nước mặt, nước mưa, nước ngầm), bằng mọi nguồn vốn tiếp tục đầu tư phát triển mạng lưới cấp nước sạch nông thôn theo các hình thức: giếng khoan, trạm cấp nước tập trung, bể lưu chứa nước mưa. Năm 2005 đầu tư xây dựng 390 giếng khoan sâu, 4.800 bể chứa nước mưa (6,5m3/bể), 180 trạm cấp nước mặt, 60 trạm cấp nước ngầm, nâng khả

năng cung cấp nước sạch cho khoảng 60% dân số nông thôn.

Vi nhng chương trình nước sch ca Đng Tháp, trong thi gian ti tình hình cơ shtng, khnăng cung cp nước sch được ci thin. Điu đó không chcó ý nghĩa đến sphát trin kinh tế - xã hi ca Đng Tháp mà nó rt thiết thc đi vi phát trin ca ngành du lch đa phương.


Bưu chính viễn thông:

Vào thập kỷ 80 việc liên lạc quốc tế của Việt Nam còn hạn chế chỉ liên lạc với một số khu vực nhất định chủ yếu qua hai trạm trung chuyển thông tin vệ tin mặt đất Intersputnik.

Chỉ trong thời gian ngắn từ 1988 đến nay ngành Bưu điện Việt Nam đã mở rộng hợp tác với nhiều nước, mạnh dạn đầu tư và hiện nay đã có thêm 4 trạm thông tin vệ tinh kỹ thuật số. Nhờ đó Việt Nam đã liên lạc tự động với hầu hết các nước trên thế giới ở Châu Âu, Á, Úc và Bắc Mỹ. Dịch vụ điện thoại di động gọi đi quốc tế (IDD) đã có tất cả 63 tỉnh, thành phố; hơn 400 huyện và 1/2 số xã trong toàn quốc.

Tính đến năm 2000, hệ thống tổng đài điện tử kỹ thuật số phủ kín toàn tỉnh Đồng Tháp, bảo đảm 100% huyện, thị có điện thoại tự động hòa vào mạng thông tin quốc gia, kết nối quốc tế, chất lượng nâng cao rõ rệt.

Đến năm 2010 nâng cấp đồng bộ thiết bị hiện có, đa dạng và hiện đại hóa các dịch vụ để đáp ứng nhu cầu sử dụng thông tin của nền kinh tế thị trường, đảm bảo thông tin liên lạc được thông suốt 24/24 giờ từ tỉnh đến huyện, xã, cơ sở; 100% xã có điểm bưu điện văn hóa xã. Tổng số thuê bao điện thoại trong toàn tỉnh là 1.941.787 máy (năm 2011), trong đó số thuê bao cố định là 168.334 máy và di động là 1.773.453 máy.

2.2.2.2. Cơ sở vật chất – kỹ thuật (lưu trú; ăn uống; vui chơi giải trí)

Cơ sở vật chất kỹ thuật du lich là một yếu tố quan trọng trong cấu thành của sản phẩm du lịch, quyết định đến chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh doanh của các khu, điểm tham quan du lịch .Việc thừa kế, phát triển các tiện nghi phù hợp không những sẽ tạo nên sự độc đáo, hấp dẫn của khu du lịch mà còn nâng cao hiệu quả kinh tế và hiệu quả đầu tư. Nó tạo ra sự khác biệt của khu du lịch này so với khu du lịch khác, góp phần giữ gìn, bảo vệ và tôn tạo cảnh quan của khu du lịch. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch bao gồm cơ sở lưu trú, các tiện nghi phục vụ ăn uống, các tiện nghi thể thao vui chơi giải trí, phương tiện vận chuyển và các tiện nghi phục vụ du lịch khác.


Cở sở lưu trú

Cơ sở lưu trú rất phong phú đa dạng về loại hình, quy mô và cấp hạng. Việc xây dựng và thiết kế các tiện nghi phù hợp không những tạo nên vẽ độc đáo hấp dẫn của khu du lịch góp phần bảo tồn, tôn tạo cảnh quan mà còn nâng cao hiệu quả kinh tế và hiệu quả đầu tư.

Thời gian qua các cơ sở lưu trú của Đồng Tháp cũng đã được nâng cấp và xây dựng mới, cụ thể từ chỗ có 7 nhà nghỉ với 92 phòng vào năm 1993 thì đến năm 1995 tiếp tục đầu tư nâng cấp khách sạn Sa Đéc, năm 1996 xây dựng khách sạn Xuân Mai và khách sạn Thiên Ân, năm 1997 nâng cấp khách sạn Mỹ Trà (nay là khách sạn Hòa Bình), năm 1998- 1999 khai trương và đưa vào sử dụng lầu 3 Sông Trà với 21 phòng. Cơ sở vật chất và dịch vụ khách sạn từng bước được đầu tư nâng cấp và xây dựng mới bắt đầu phát triển từ năm 1999 hòa nhịp cùng Hội khỏe Phù Đổng lần thứ V – năm 2000 do tỉnh Đồng Tháp đăng cai tổ chức. Vì thế vào năm này đã đưa vào hoạt động khu du lịch Mỹ Trà với 66 phòng nghỉ được trang bị đầy đủ tiện nghi và 2 nhà hàng có sức chứa 800 khách.

Đến năm 2000 đã có 13 khách sạn với tổng số 331 phòng. Trong đó 229 phòng đạt tiêu chuẩn phục vụ khách quốc tế. Tính đến tháng 09/2000 đã có 6 khách sạn được xếp hạng, trong đó khách sạn Sông Trà, khách sạn Hòa Bình đạt tiêu chuẩn 3 sao, khách sạn Sa Đéc, khách sạn Xuân Mai, Mỹ Trà đạt chuẩn 2 sao và khách sạn Thiên Ân đạt chuẩn 1 sao.

Tính đến năm 2006 trên địa bàn tỉnh có 21 khách sạn đang hoạt động, trong đó có 01 khách sạn 3 sao, 05 khách sạn 2 sao, 06 khách sạn 1 sao, 09 khách sạn đủ tiêu chuẩn với tổng số phòng là 538 phòng, trong đó có 366 phòng đạt tiêu chuẩn phục vụ khách quốc tế. Ngoài ra còn có 01 khách sạn đang hoàn thiện các trang thiết bị theo tiêu chuẩn hạng 2 sao và 01 khách sạn đang lập hồ sơ xin công nhận đủ tiêu chuẩn hoạt động kinh doanh khách sạn.

Ngoài hệ thống cơ sở lưu trú du lịch đã được công nhận loại, hạng thì trên địa bàn tỉnh còn có 11 nhà nghỉ với tổng số là 85 phòng, 719 nhà trọ với tổng số là 6.828 phòng, các cơ sở này do Phòng Kinh tế, Công thương huyện, thị xã quản lý.


Cùng kinh doanh dịch vụ lưu trú, còn có một số nhà khách thuộc các Sở, Ban, Ngành và Ủy ban nhân dân huyện, thị, chưa được chuyển đổi theo Quyết định số 317-TTg, ngày 29 tháng 06 năm 1993 của Thủ Tướng Chính Phủ, vì nhiều lí do khác nhau. Trang thiết bị của các cơ sở nhà trọ, nhà nghỉ ở mức bình thường chủ yếu là giường, chăn, màn, gối, chỉ có một số ít cơ sở thuộc nội ô thị xã, thị trấn có trang bị thêm máy lạnh, tivi, tủ quần áo.

Bảng 2.2. Cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp giai đoạn 2000 – 2011



Năm

Tổng số cơ

sở lưu trú (cơ sở)

Tổng số

phòng (phòng)

Phòng đạt chuẩn

phục vụ khách quốc tế (phòng)

Phòng nội

địa (phòng)

Công suất

sử dụng (%)

2000

13

331

229

102


2001

12

332

247

85


2002

10

295

259

36


2003

15

387

256

131


2004

19

461

299

162


2005

20

494

376

118

40,05

2006

21

538

366

172

44,7

2007

23

569

390

179

49,4

2008

23

542

383

159

50,23

2009

27

752

561

191

52,24

2010

33

761

598

163

51,45

2011

43

950

800

150

51,45

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 159 trang tài liệu này.

Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Đến nay thì số cơ sở lưu trú được xếp hạng của tỉnh không ngừng tăng lên cả về số lượng mà còn được đầu tư nâng cấp về chất lượng nhằm phục vụ nhu cầu cho khách du lịch. Năm 2011 tỉnh có 43 cơ sở được xếp hạng với tổng số phòng là 950 với 800 phòng đạt chuẩn phục vụ khách quốc tế.


Biểu đồ 2.1. Sự phát triển cơ sở lưu trú tỉnh Đồng Tháp giai đoạn 2000 – 2011


Về chất lượng phục vụ đã có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bằng 5

Về chất lượng, phục vụ đã có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bằng cách tăng thêm các dịch vụ trong khách sạn, bổ sung, thay mới các trang thiết bị đã cũ hoặc hư hỏng. Công suất sử dụng phòng bình quân hàng năm đã tăng lên. Năm 2011 đạt khoảng 51,45%, đạt mức trung bình so với mặc bằng chung của thị trường khách sạn Việt Nam, tuy nhiên con số này vẫn còn thấp và để vốn đầu tư cho khách sạn đạt hiệu quả thì công suất phòng trung bình phải đạt 70%.

Các khách sạn chủ yếu thuộc sở hữu Nhà nước chiếm khoảng 70%. Nhìn chung, hệ thống khách sạn tư nhân ở đây phát triển không nhiều so với các tỉnh, thành phố khác. Các khách sạn thường có qui mô nhỏ chủ yếu từ 20 – 30 phòng, 07 khách sạn qui mô dưới 20 phòng, 04 khách sạn mới đi vào hoạt động trong một vài năm trở lại đây có qui mô 40 – 50 phòng với các tiện nghi ăn uống, massage, karaoke.

Nhìn chung, trong thời gian qua hệ thống khách sạn của Đồng Tháp cũng đã được chú trọng đầu tư nâng cấp và xây mới. Tuy nhiên do không có chế độ bão dưỡng thường xuyên và định kì nên chất lượng một số khách sạn cũng đã bị xuống cấp kể cả các khách sạn đạt tiêu chuẩn phục vụ và đón tiếp khách quốc tế. Trang trí nội thất của các khách sạn cũng còn ở mức khiêm tốn so với các thành phố lớn, các khu du lịch trọng điểm của Việt Nam. Hệ thống cơ sở lưu trú du lịch và các cơ sở


nhà trọ, nhà nghỉ phát triển khá nhanh, nhất là loại hình kinh doanh nhà trọ. Tuy nhiên, các trang thiết bị nội thất còn ở mức thấp, công tác duy tu bảo dưỡng không được thực hiện thường xuyên, các vật dụng đã cũ và hư hỏng chưa được sữa chữa và thay mới kịp thời.

Tiện nghi ăn, uống

Tiện nghi ăn uống rất phong phú đa dạng về loại hình và cấp hạng nhằm đáp ứng nhu cầu khác nhau của các loại thị trường khách khác nhau. Các tiện nghi ăn uống bao gồm các loại nhà hàng, quán ăn nhẹ, các loại Bar, shop, ...

Theo số liệu thống kê của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thì tiện nghi ăn, uống của tỉnh Đồng Tháp có thể chia làm 2 loại:

+ Cơ sở ăn uống trong hệ thống du lịch: gồm có 06 nhà hàng ăn uống nằm trong các khách sạn và 02 nhà hàng tại 02 khu du lịch ( Khu du lich Xẻo Quýt và khu du lịch Gáo Giồng).

+ Cơ sở ăn uống chuyên doanh nằm ngoài hệ thống du lịch: Hiện nay trên toàn tỉnh có 471 nhà hàng, quán ăn, tiệm ăn với sức chứa 20.770 chỗ ngồi. Nhìn chung các cơ sở này phát triển rất mạnh chủ yếu ở trung tâm thị xã Sa Đéc và thành phố Cao Lãnh; hầu hết các chủ cơ sở và nhân viên phục vụ chưa được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ nhà hàng, chủ yếu làm theo kinh nghiệm thực tế nên chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng phục vụ của ngành du lịch.

Các nhà hàng chủ yếu là phục vụ các món ăn địa phương mang đậm bản Nam Bộ. Phần lớn khách du lịch nội địa đến Đồng Tháp chủ yếu là đến từ thành phố Hồ Chí Minh và các vùng lân cận của vùng Đồng bằng sông Cửu Long; vì vậy các món ăn ở đây tương đối phù hợp với khách nội địa. Tuy nhiên, đối với khách quốc tế đến Đồng Tháp (chủ yếu là khách đến từ Pháp, Bĩ, Mỹ, Nhật, Bắc Âu, Canada, Hồng Kông và Châu Âu) cũng cần chú trọng đến khẩu vị của khách và chế biến các món ăn theo thị hiếu của khách.

Các nhà hàng ở Trung tâm thành phố và các thị xã của Đồng Tháp cũng như các nhà hàng ở một số địa danh du lịch trong tỉnh chưa chú trọng nhiều đến việc bài trí, trang hoàng các phòng ăn. Trong tương lai các tiện nghi ăn uống không những

Xem tất cả 159 trang.

Ngày đăng: 15/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí