Phát triển công nghiệp nông thôn tỉnh Thừa Thiên Huế - 2


Phương pháp cụ thể là phân tích và tổng hợp, lôgic và lịch sử để tổng hợp các tài liệu, điều tra, phân tích, so sánh, đối chiếu các số liệu liên quan đến đề tài.

6. Đóng góp của luận văn

Nghiên cứu này góp phần làm rõ thêm phạm trù công nghiệp nông thôn và ý nghĩa của nó trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.

Phân tích làm rõ những luận cứ khoa học cho việc phát triển công nghiệp nông thôn tỉnh Thừa Thiên Huế.

Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển công nghiệp nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Thừa Thiên Huế.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.

Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển công nghiệp nông

thôn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.

Chương 2. Thực trạng phát triển công nghiệp nông thôn ở tỉnh Thừa

Thiên Huế từ năm 2000 đến nay.

Phát triển công nghiệp nông thôn tỉnh Thừa Thiên Huế - 2

Chương 3. Quan điểm, phương hướng và giải pháp cơ bản phát triển công nghiệp nông thôn tỉnh Thừa Thiên Huế trong thời gian tới.


Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

VỀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN


Nông nghiệp, nông thôn và nông dân là những vấn đề mang tính chiến lược trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển bởi nông thôn luôn là vùng còn nhiều khó khăn về đời sống vật chất lẫn tinh thần do tốc độ gia tăng dân số nhanh, đất đai canh tác ngày càng thu hẹp, trình độ lực lượng sản xuất kém phát triển, năng suất lao động thấp. Vấn đề phát triển công nghiệp nông thôn hiện nay đang được nhiều nước quan tâm, đặc biệt là các nước đang phát triển.‌

Đối với nước ta, phát triển công nghiệp nông thôn được xem là chìa khóa hữu hiệu nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới giàu có, công bằng, dân chủ, văn minh.

1.1. Những vấn đề lý luận chung về phát triển công nghiệp nông thôn

1.1.1. Một số khái niệm cơ bản

Công nghiệp nông thôn được một số nước quan tâm phát triển khá sớm, từ thập kỷ 60 của thế kỷ XX. Một số nước như Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan, Đài Loan, Ấn Độ đã nghiên cứu, phát triển công nghiệp nông thôn, xem đó là một nội dung quan trọng của công nghiệp hóa nông thôn. Ở nước ta, công nghiệp nông thôn được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX.

Công nghiệp nông thôn là vấn đề khá mới mẻ, tùy theo mục tiêu nghiên cứu mà các tác giả có các cách tiếp cận khái niệm công nghiệp nông thôn theo trên những bình diện khác nhau. Cho đến nay, có một số cách tiếp cận tiêu biểu sau:[9, tr.31]


Thứ nhất, cách tiếp cận dưới góc độ kinh tế lãnh thổ

Đây là quan niệm của một số nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonexia, theo cách tiếp cận này, công nghiệp nông thôn được xem là một bộ phận của kinh tế nông thôn. Cách tiếp cận này chú trọng đến yếu tố lãnh thổ. Trên bình diện kinh tế lãnh thổ, công nghiệp nông thôn được xét trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của địa phương, nó là một bộ phận hữu cơ trong cơ cấu kinh tế địa phương góp phần khai thác triệt để, có hiệu quả các nguồn lực tại chỗ nhằm đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế xã hội. Cách tiếp cận này cho phép các nhà quản lý ở địa phương dễ thực hiện quá trình quản lý nhà nước về kinh tế nói chung và quản lý công nghiệp nói riêng.

Tuy nhiên, cách tiếp cận này dễ đưa đến sự phát triển của công nghiệp nông thôn bị tách ra khỏi sự phát triển công nghiệp, tách rời yếu tố kinh tế kỹ thuật chung của ngành công nghiệp quốc gia. Khi tách rời khỏi cơ cấu kinh tế ngành của cả nước sẽ có nhiều sự cản trở làm mất sự cân đối trong cơ cấu nội bộ kinh tế ngành của công nghiệp, mối quan hệ hữu cơ giữa các đơn vị trong ngành thiếu đồng bộ, thiếu chặt chẽ làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh. Quá trình địa phương hóa sản phẩm công nghiệp nông thôn cũng làm cho việc chuyển giao công nghệ không đạt hiệu quả như mong muốn, giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.

Như vậy cách tiếp cận này mới làm rõ mối quan hệ hữu cơ của công nghiệp nông thôn với tư cách là một bộ phận trong cơ cấu kinh tế vùng ở nông thôn mà chưa thấy vai trò của nó với tư cách là một bộ phận của kinh tế ngành cũng như như sự tác động của nó đến sự phát triển kinh tế xã hội nói chung.

Thứ hai, cách tiếp cận dưới góc độ kinh tế ngành

Đây là quan niệm ở một số nước như Mêhicô, Braxin, Hàn Quốc và Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc (UNIDO)


Theo cách tiếp cận này, công nghiệp nông thôn được xem là một bộ phận của ngành công nghiệp được phân bố ở địa bàn nông thôn. Sự phát triển của nó được xem như một vấn đề thuộc về việc phân bố công nghiệp nói chung, mỗi ngành công nghiệp cụ thể nói riêng ở những vùng lãnh thổ mà sự tập trung của công nghiệp chưa cao. Đồng thời sự phát triển của công nghiệp nông thôn phải đặt trong tổng thể phát triển của ngành công nghiệp quốc gia, là một nội dung của công nghiệp hóa. Cách tiếp cận này thường được chấp nhận bởi các cán bộ quản lý, hoạch định chính sách phát triển ngành công nghiệp vì nó gắn với quy hoạch, phân bố, điều chỉnh hay theo dõi sự phát triển chung của ngành công nghiệp quốc gia.

Tuy nhiên, do quá nhấn mạnh đến yếu tố kinh tế kinh tế kỹ thuật của công nghiệp nông thôn mà ít quan tâm đến cơ cấu kinh tế nông thôn nên dễ dẫn đến làm mất cân đối cơ cấu kinh tế ngành ở nông, không huy động và sử dụng được những tiềm năng các nguồn lực ở địa phương vào quá trình phát triển kinh tế xã hội của địa phương.

Thứ ba, cách tiếp cận dưới góc độ kinh tế xã hội

Đây là cách tiếp cận đặc trưng của Đài Loan, theo cách tiếp cận này, công nghiệp nông thôn được xem là toàn bộ những hoạt động sản xuất có tính chất công nghiệp ở nông thôn, là biện pháp góp phần phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn. Cách tiếp cận này xuất phát từ thực trạng nghèo nàn, lạc hậu của kinh tế xã hội ở nông thôn, đây là khu vực kém phát triển, lực lượng sản xuất ở trình độ thấp, diện tích canh tác luôn có xu hướng thu hẹp dần, khả năng thâm canh tăng vụ, hiệu quả sản xuất nông nghiệp thấp, cơ cấu kinh tế biến đổi chậm trong lúc dân số tăng nhanh dẫn đến đời sống cư dân nông thôn luôn ở gặp phải khó khăn, thiếu thốn. Những vấn đề đó làm cho nông thôn rơi vào vòng lẩn quẩn của sự đói nghèo. Một trong những hướng nhằm thoát khỏi vòng lẩn quẩn đó là đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân công lại lao động ở nông thôn mà các hoạt động mang tính chất công nghiệp có vai trò đáng kể. Chọn giải


pháp phát triển công nghiệp nông thôn để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn là một trong những giải pháp cơ bản có ý nghĩa quan trọng.

Tuy nhiên, nếu lấy việc phát triển kinh tế nông thôn để phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn thì lại là khiếm khuyết lớn vì chính sự phát triển bản thân công nghiệp nông thôn sẽ không chỉ tác động đến nông thôn mà sự phát triển đó tất yếu tác động đến thành thị, tác động đến ngành công nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Do đó cách tiếp cận này chưa thể hiện tính hệ thống trong chiến lược phát triển công nghiệp nói riêng và tổng thể nền kinh tế nói chung.

Thứ tư, cách tiếp cận dưới góc độ kinh tế tổ chức

Đây là cách tiếp cận của Trung tâm phát triển nông thôn toàn diện khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Theo cách tiếp cận này, các hoạt động kinh tế có quy mô nhỏ của các hộ gia đình gọi là công nghiệp nông thôn. Cách tiếp cận này xuất phát từ bối cảnh nông thôn của các nước đang phát triển có dân số đông trong lúc các hoạt động nông nghiệp hạn chế buộc một bộ phận cư dân nông thôn phải chuyển sang lao động trong các ngành phi nông nghiệp nhằm giải quyết việc làm ở nông thôn ở quy mô gia đình. Đây là một hướng đi phổ biến ở nông thôn nhưng lại không nói rõ nội hàm của công nghiệp nông thôn dễ gây nhầm lẫn rằng các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn là công nghiệp nông thôn tức là công nghiệp nông thôn bao hàm cả dịch vụ.

Thứ năm, cách tiếp cận dưới góc độ cộng đồng, làng xóm

Đây là cách tiếp cận của Nhật Bản, Ấn Độ, Indonexia, theo cách tiếp cận này, tính gia đình, cộng đồng làng xóm được nhấn mạnh. Các cơ sở công nghiệp nông thôn chủ yếu được thành lập từ các gia đình, dòng tộc, thôn xóm. Nó có tính tích cực trong việc bảo tồn các kỹ nghệ, bí quyết truyền thống cũng như bản sắc văn hóa của địa phương. Cũng theo cách


tiếp cận này, quy mô công nghiệp nông thôn chỉ dừng ở mức độ rất nhỏ, quy mô sản xuất chỉ ở mức hộ gia đình, thôn xóm.

Tuy nhiên, trong giai đoạn cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển một cách mạnh mẽ thì cách tiếp cận này không phù hợp vì nó sẽ phá vỡ quy mô sản xuất nhỏ này để phát triển lên quy mô lớn hơn đồng thời tầm ảnh hưởng của nó vượt ra khỏi lãnh thổ nông thôn.

Từ các cách tiếp cận trên cho thấy tính đa dạng của các quan niệm về công nghiệp nông thôn, điều đó cũng đặt ra vấn đề là không thể tiếp cận khái niệm này một cách riêng lẻ mà phải dựa trên quan điểm toàn diện. Khi nghiên cứu về vấn đề công nghiệp nông thôn phải đặt sự phát triển của nó trong mối quan hệ hữu cơ với quá trình phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn nói riêng và của cả nước nói chung; phải đảm bảo yếu tố kinh tế kỹ thuật, kinh tế tổ chức và kinh tế xã hội; phải đảm bảo tính đặc thù lãnh thổ của nông thôn đồng thời phải nằm trong tổng thể của quá trình vận động phát triển của ngành công nghiệp.

Ở Việt Nam, tùy theo mục đích nghiên cứu mà các tác giả có quan niệm khác nhau về công nghiệp nông thôn.

Có tác giả cho rằng công nghiệp nông thôn là toàn bộ các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp ở nông thôn. Điều này có nghĩa là các hoạt động phi nông nghiệp được đồng nhất với công nghiệp nông thôn bao gồm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ. Cơ sở của quan điểm này xuất phát từ việc cho rằng phát triển công nghiệp là nói đến tính chất của sản xuất hàng hóa. Điều này dẫn đến sự trao đổi giữa các ngành làm cho thương mại, dịch vụ ra đời là tất yếu và các ngành đó luôn nằm trong một tổng thể thống nhất hữu cơ. Quan điểm này có ý nghĩa trong việc phát triển kinh tế nông thôn với mục tiêu là chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ thuần nông sang cơ cấu tiến bộ hơn bằng cách tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Song cách tiếp cận này lại không thống nhất được khi đồng nhất khái niệm công nghiệp nông thôn với các hoạt động phi nông nghiệp vì giữa


chúng có sự khác nhau căn bản theo tiêu chí kinh tế ngành: công nghiệp là ngành sản xuất vật chất tạo ra các loại hàng hóa hữu hình trong lúc thương nghiệp dịch vụ là ngành sản xuất phi vật chất tạo ra hàng hóa vô hình. Do đó không thể gộp thương nghiệp và dịch vụ vào công nghiệp nông thôn.

Có tác giả cho rằng công nghiệp nông thôn là tiểu thủ công nghiệp được phân bố ở nông thôn với tư cách là một bộ phận của kinh tế địa phương nhằm cung cấp, bổ sung các sản phẩm hàng hoá cho khu vực nông thôn khi công nghiệp quốc doanh hoặc công nghiệp ở đô thị không cung cấp đủ hay không thể cung cấp. Trong trường hợp này công nghiệp nông thôn có vai trò bổ sung cho công nghiệp quốc doanh khi năng lực công nghiệp quốc doanh có hạn. Quan điểm này chỉ cho thấy vai trò bổ sung của công nghiệp nông thôn mà không thấy sự độc lập tương đối và vai trò to lớn của nó trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát kinh tế nông thôn.

Có tác giả xét công nghiệp nông thôn bao gồm tất cả các hoạt động của công nghiệp trên địa bàn nông thôn, không cần xét đến mối quan hệ và tác động của nó đến sự phát triển của kinh tế nông thôn. Quan điểm này dẫn đến việc đánh giá không chính xác sự phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn vì thực tế có một số cơ sở công nghiệp rất lớn đóng ở địa bàn nông thôn nhưng không gắn bó nhiều với nông thôn mặc dù làm tăng giá trị sản xuất của khu vực nông thôn lên rất cao dẫn đến sự hiểu nhầm tỷ trọng sản xuất nông nghiệp chiếm ưu thế nhưng thực tế có thể ngược lại và có thể dẫn đến công tác hoạch định chính sách phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn không phù hợp.

Có tác giả cho rằng công nghiệp nông thôn là toàn bộ hoạt động công nghiệp phục vụ trực tiếp cho nông thôn không phân biệt nó phân bố ở nông thôn hay không. Quan niệm này nói lên mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp nhưng làm cho quá trình nghiên cứu phức tạp vì không phân biệt công nghiệp nông thôn và đô thị cũng như xác định nội


hàm của công nghiệp nông thôn vì thực tế nhiều ngành công nghiệp không chỉ phục vụ cho nông thôn mà còn cho cả thành phố.

Có tác giả cho rằng công nghiệp nông thôn là bộ phận công nghiệp phân bố ở nông thôn có quan hệ mật thiết với quá trình sản xuất kinh doanh ở nông thôn. Quan niệm này có tính thuyết phục hơn vì đã nói lên được quan hệ mật thiết giữa sự phát triển của công nghiệp nông thôn với sự phát triển kinh tế xã hội nông thôn. Tuy nhiên quan niệm này chưa thấy được sự phát triển của công nghiệp nông thôn vì trên thực tế hiện nay, sự phát triển này đến một mức độ nhất định sẽ vượt ra phạm vi nông thôn và sẽ hội nhập vào nền kinh tế quốc dân nói riêng cũng như nền kinh tế thế giới nói chung.

Với sự phân tích nói trên cho thấy không thể xét công nghiệp nông thôn một cách phiến diện mà phải đặt nó trong tổng thể phát triển kinh tế xã hội của nông thôn, của ngành công nghiệp và của sự phát triển của chính bản thân nó.

Tổng hợp các quan điểm nói trên có thể đi đến khái niệm công nghiệp nông thôn như sau:

Công nghiệp nông thôn là một bộ phận của công nghiệp cả nước được phân bố ở nông thôn bao gồm các cơ sở sản xuất công nghiệp với quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, cùng với các ngành tiểu thủ công nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức sản xuất khác nhau gắn bó chặt chẽ với sự phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn do chính quyền địa phương quản lý về mặt nhà nước.

Với khái niệm này, công nghiệp nông thôn được hiểu là một bộ phận của ngành công nghiệp phân bố ở địa bàn nông thôn, phân biệt với công nghiệp thành thị. Công nghiệp nông thôn phân bố ở nông thôn không phải chỉ đứng chân ở nông thôn mà còn phải có quan hệ chặt chẽ với quá trình phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn thông qua các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất cũng như đầu ra cho thị trường sản phẩm.

Xem tất cả 99 trang.

Ngày đăng: 03/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí