thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cán bộ văn hóa, gia đình phải là chủ yếu (ít nhất là 50% khối lượng công tác). Cán bộ văn hóa, gia đình cấp xã, ngoài trình độ tốt nghiệp Cao đẳng văn hóa trở lên, còn phải có kinh nghiệm công tác, nhất là khả năng tổ chức, tuyên truyền, vận động, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện nếp sống văn hóa, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư và xây dựng gia đình văn hóa - gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc.
Để thực hiện được giải pháp này, các cơ quan quản lý văn hóa và gia đình cấp huyện (bao gồm cả thành phố, thị xã thuộc tỉnh) cần tiến hành một số biện pháp sau:
Thứ nhất, rà soát, sắp xếp lại biên chế theo hướng tinh giản, kiêm nhiệm thêm những việc phụ, việc gần gũi ngành nghề đào tạo...để dành biên chế thỏa đáng cho bộ phận xây dựng nếp sống văn hóa và gia đình như đề xuất ở trên. Trường hợp, thiếu nguồn nhân lực cần phải bổ sung, thì nhất thiết phải tuyển dụng người đủ tiêu chuẩn cả về đạo đức lẫn chuyên môn, nghiệp vụ, tốt nhất nên tuyển người tốt nghiệp đại học chính quy, được đào tạo đúng chuyên ngành về quản lý văn hóa và gia đình, đạt kết quả học tập từ loại khá trở lên.
Thứ hai, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, nhân viên làm công tác xây dựng nếp sống văn hóa và gia đình. Để làm được điều này, ngoài việc cử cán bộ đi học nâng cao trình độ ở các trường ngành, các tỉnh, huyện cần tăng cường mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ hay tập huấn ngắn ngày theo chuyên đề để cập nhật kiến thức và nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho cán bộ, nhân viên, nhất là cán bộ cấp cơ sở (xã, phường, thôn, tổ...).
Thực hiện tốt giải pháp này như đề xuất nêu trên, vùng ĐBSH sẽ có một hệ thống tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý công tác xây dựng nếp sống văn hóa và gia đình đủ mạnh để đưa phong trào xây dựng nếp sống văn minh, GĐVH, trong đó có phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH lên một bước phát triển mới với kết quả tốt hơn, xứng đáng là vùng đi đầu trong cả nước về mọi mặt.
4.2.3. Hoàn thiện thiết chế về công tác gia đình nhằm phát huy có hiệu quả giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình văn hóa vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay
Giải pháp này được đề xuất dựa trên cơ sở sau:
Thứ nhất, xuất phát từ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của cơ chế chính sách là yếu tố mở đường, chỉ dẫn và tạo ra “hành lang” pháp lý cho hoạt động thực tiễn. Nếu
Có thể bạn quan tâm!
- Mâu Thuẫn Giữa Sự Cần Thiết Phát Huy Giá Trị Gia Đình Truyền Thống Trong Xây Dựng Gia Đình Văn Hóa Với Hạn Chế Về Các Điều Kiện Để Phát Huy Ở
- Phát Huy Giá Trị Gia Đình Truyền Thống Trong Xây Dựng Gia Đình Văn Hóa Vùng Đồng Bằng Sông Hồng Phải Gắn Với Chiến Lược Giáo Dục Và Đào Tạo Nguồn
- Kiện Toàn Hệ Thống Tổ Chức Bộ Máy Và Đội Ngũ Cán Bộ Quản Lý Về Công Tác Gia Đình Nhằm Phát Huy Có Hiệu Quả Giá Trị Gia Đình Truyền Thống Trong
- Phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay - 19
- Phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay - 20
- Phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay - 21
Xem toàn bộ 204 trang tài liệu này.
chính sách, pháp luật hoàn thiện, hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xây dựng nếp sống văn hóa, gia đình nói chung và việc phát huy giá trị GĐTT trong việc xây dựng GĐVH nói riêng đạt kết quả tốt và ngược lại, chính sách, pháp luật không đầy đủ, không phù hợp thực tiễn, thiếu đồng bộ sẽ gây khó khăn cho việc thực hiện, cản trở sự phát triển và kết quả đạt được bị hạn chế.
Thứ hai, các thiết chế xây dựng văn hóa, gia đình nói chung, xây dựng nếp sống văn hóa, GĐVH trong đó có việc phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập.
Thứ ba, các thiết chế cũng phải thay đổi cho phù hợp với sự phát triển thực tiễn. Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế, các giá trị gia đình có thể phát triển cho phù hợp thời đại đòi hỏi cơ chế, chính sách cũng phải thay đổi tương ứng. Vì thế, việc rà soát, chỉnh sửa, bổ sung các văn bản để hoàn thiện cơ chế, chính sách về xây dựng nếp sống văn hóa, GĐVH là việc làm thường xuyên, cần thiết.
Như đã phân tích ở chương 3, hiện nay hệ thống văn bản pháp luật về gia đình hoặc liên quan đến gia đình ở nước ta đã tương đối đầy đủ. Các văn bản pháp luật đó cùng các văn bản chỉ đạo, quản lý của Bộ ngành, địa phương được ban hành, có hiệu lực đã đi vào cuộc sống và mang lại những kết quả tích cực. Tuy nhiên, cơ chế, chính sách về văn hóa, gia đình nói chung, xây dựng nếp sống văn hóa, GĐVH, trong đó có việc phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH nói riêng vẫn còn nhiều bất cập như: chưa có Luật bảo tồn các giá trị gia đình truyền thống Việt Nam; vùng ĐBSH có vị trí, vai trò quan trọng, là vùng trung tâm đầu não về chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học công nghệ của cả nước, là một trong những cái nôi của văn hóa truyền thống Việt Nam, là nơi cư trú, sinh sống của nhiều GĐTT... nhưng chưa xây dựng được Chiến lược phát triển văn hóa, gia đình của vùng; Các tỉnh vùng ĐBSH, đã có cơ chế Giao ban vùng trong nhiều lĩnh vực hoạt động, nhưng chưa có giao ban Vùng trong hoạt động xây dựng nếp sống văn hóa và gia đình…
Từ thực tế nêu trên, Tác giả luận án mạnh dạn đề xuất với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Chính phủ, Quốc hội: Cần sớm có Luật bảo tồn các giá trị gia đình truyền thống Việt Nam, trong đó xác định rõ các giá trị văn hóa truyền thống nói chung, giá trị GĐTT nói riêng gồm những gì, quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá
nhân phải làm gì để bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa, giá trị GĐTT cùng những chế tài cần thiết để đảm bảo giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đó.
Ngoài đề xuất trên, đặc biệt với các tỉnh thuộc Vùng đồng bằng Sông Hồng, tác giả Luận án đề nghị:
Một là, sớm xây dựng Chiến lược phát triển văn hóa và gia đình vùng ĐBSH. Chiến lược này không những quán triệt, thực hiện mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp nêu ra trong Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030 của cả nước, mà còn cụ thể hóa chúng thành những chỉ tiêu, giải pháp, tiến độ thực hiện phù hợp với đặc điểm, vị trí, vai trò của vùng ĐBSH.
Hai là, mở rộng cơ chế Giao ban vùng ĐBSH sang cả lĩnh vực gia đình để hàng năm cùng nhau đánh giá, thảo luận, trao đổi kinh nghiệm việc xây dựng nếp sống văn hóa, GĐVH và phát huy các giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH ở các tỉnh thuộc vùng ĐBSH, coi đây là một trong những chỉ tiêu thi đua giữa các tỉnh trong vùng.
Ba là, trong điều kiện kinh tế còn khó khăn, Nhà nước chưa có chế độ chính sách chung về thù lao hay bồi dưỡng vật chất cho những người tham gia công tác văn hóa và gia đình ở thôn, xóm, tổ dân phố (cấp dưới cơ sở)... thì các tình trong vùng ĐBSH, tùy theo khả năng, cần có chế độ bồi dưỡng cho các đối tượng này để động viên họ nâng cao tinh thần trách nhiệm, làm tốt những công việc được giao.
Để thực hiện giải pháp này, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch với chức năng là cơ quan quản lý ngành văn hóa và gia đình trên phạm vi toàn quốc cần căn cứ vào các văn bản chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chỉ đạo của chính phủ sớm xây dựng dự thảo Luật bảo tồn các giá trị gia đình truyền thốngViệt Nam để trình Chính phủ và Quốc Hội thảo luận, biểu quyết thông qua và ban hành. Sau khi có Luật, Chính phủ và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch kịp thời ra các văn bản dưới Luật (Nghị định Chính phủ, Thông tư hướng dẫn của Bộ) để sớm đưa Luật này vào cuộc sống.
Đối với vùng ĐBSH, các tỉnh cần cùng nhau lập ra một Ban xây dựng Chiến lược phát triển văn hóa và gia đình vùng ĐBSH (Chiến lược) gồm các chuyên gia có trình độ chuyên môn cao về lĩnh vực văn hóa, gia đình và kinh nghiệm thực tiễn tốt, được chọn lọc từ các tỉnh để xây dựng dự thảo. Sau khi có bản dự thảo Chiến lược, cần tổ chức thảo luận dự thảo sâu, rộng trong các tổ chức thuộc hệ thống
chính trị và các tầng lớp nhân dân của tất cả các tỉnh trong vùng để lấy ý kiến hoàn thiện. Sau đó, dự thảo cần được một Hội đồng chuyên môn gồm những nhà khoa học đầu ngành thảo luận, đánh giá như một đề tài nghiên cứu khoa học trước khi trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Để hoàn thành được Chiến lược này, các tỉnh thuộc vùng ĐBSH phải cùng nhau đóng góp kinh phí từ nguồn nghiên cứu khoa học
- công nghệ của địa phương.
Các địa phương trong vùng ĐBSH cần thường xuyên hoặc định kỳ rà soát các văn bản thuộc cơ chế, chính sách, pháp luật hiện hành về xây dựng nếp sống văn hóa và gia đình để kịp thời chỉnh sửa hoặc đề nghị chỉnh sửa, bổ sung các văn bản nhằm hoàn thiện cơ chế chính sách cho phù hợp với sự phát triển của thực tiễn.
Hoàn thiện cơ chế chính sách phát huy các giá trị văn hóa truyền thống nói chung, giá trị GĐTT nói riêng trong việc xây dựng nếp sống văn hóa, GĐVH như đã nêu trên chẳng những sẽ tạo được một “hành lang pháp lý” rõ ràng, minh bạch, thuận lợi, giúp cho các địa phương vùng ĐBSH thêm vững vàng, tự tin tiến lên trong việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, trong đó có giá trị GĐTT mà còn góp phần tích cực vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
4.2.4. Nâng cao vai trò và năng lực của các chủ thể phát huy nhằm thực hiện tốt phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình văn hóa vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay
Giải pháp này được đưa ra dựa trên cơ sở:
Thứ nhất, xuất phát từ vai trò, tầm quan trọng của các chủ thể phát huy. Như trên đã nói, phát huy giá trị GĐTT trong việc xây dựng GĐVH ở nước ta nói chung và các tỉnh ĐBSH nói riêng là trách nhiệm của mọi cấp, mọi ngành, của cả HTCT và toàn thể nhân dân. Tuy nhiên, chủ thể quyết định tới chất lượng, hiệu quả của quá trình phát huy được biểu hiện tập trung thông qua vai trò của HTCT đó là Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể. Đây là những lực lượng xác lập, chuyển tải và hiện thực hóa nội dung, phương thức phát huy giá trị GĐTT trong hoạt động thực tiễn, đồng thời đóng vai trò là chủ thể của công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động xây dựng GĐVH trong quần chúng nhân dân. Vì thế, phát huy vai trò và nâng cao năng lực công tác của các chủ thể là giải pháp quan trọng, cơ bản để giữ gìn, phát huy các
giá trị văn hóa truyền thống, trong đó có phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH ở các địa phương trong vùng ĐBSH.
Thứ hai, xuất phát từ thực trạng vai trò và năng lực của các chủ thể phát huy là gia đình và hệ thống chính trị ở vùng ĐBSH còn nhiều hạn chế, bất cập. Nhiều gia đình và các thành viên trong gia đình chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm của mình trong phát huy giá trị GĐTT, thiếu kỹ năng xử lý vấn đề và giải quyết mâu thuẫn dẫn đến ly hôn, ly thân, lúng túng trong giáo dục con cái... trước sự biến đổi của kinh tế, xã hội. Vai trò, năng lực của hệ thống chính trị trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH vùng ĐBSH đôi khi chưa tốt, còn thiếu đồng bộ, thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc do năng lực yếu kém, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm công tác còn hạn chế.
Thực hiện giải pháp này, các chủ thể phát huy thuộc HTCT cần phát huy vai trò và nâng cao năng lực làm việc cho đội ngũ cán bộ của mình. Cụ thể:
Với vai trò là lực lượng giữ vị trí độc tôn trong lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố đóng vai trò quyết định tới chất lượng, hiệu quả quá trình phát huy giá trị GĐTT vào sự nghiệp xây dựng GĐVH ở nước ta hiện nay. Đảng lãnh đạo HTCT và nhân dân bằng các Nghị quyết (chủ trương, đường lối), công tác cán bộ và sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Nhà nước cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật và các tổ chức đoàn thể cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thành các phong trào thi đua trong thực tiễn phát triển kinh tế xã hội. Sau khi ra các chỉ thị, nghị quyết, tổ chức học tập, quán triệt cho cán bộ, đảng viên, Đảng phải tiến hành kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện và tổng kết đánh giá kết quả thực hiện chỉ thị, nghị quyết, rút ra những kết luận, những kinh nghiệm cần thiết để bổ sung phát triển lý luận nhằm chỉ đạo có hiệu quả trong thực tiễn. Đây chính là cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ trong xã hội ta.
Đảng Cộng sản Việt Nam với vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình, cần phải thường xuyên làm tốt công tác xây dựng Đảng, làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh cả về tư tưởng chính trị, tổ chức, đạo đức, lối sống. Trước mắt, phải làm tốt việc xây dựng, chỉnh đốn nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, và sức chiến đấu của Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về công tác xây dựng Đảng hiện nay” và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII (Nghị quyết số: 04-NQ/TW) ngày 30- 10-2016 “về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, coi đây là đòi hỏi cấp thiết trong tình hình hiện nay.
Nhà nước - chủ thể quán triệt, cụ thể hóa chủ trương đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật và triển khai có hiệu lực trên thực tế. Trên nền tảng đường lối, chủ trương của Đảng về lĩnh vực văn hóa và gia đình, trong đó có phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH, các cơ quan chính quyền, cơ quan quản lý Nhà nước các cấp về văn hóa và gia đình cần nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ (gồm năng lực nghiên cứu, nhận thức; năng lực cụ thể hóa chỉ thị, nghị quyết; năng lực tổ chức, quản lý; năng lực tuyên truyền, vận động,; năng lực kiểm tra, giám sát; năng lực tổng kết, đánh giá thực tiễn...) và hiệu lực quản lý Nhà nước đối với đời sống văn hóa xã hội và gia đình, trong đó có vấn đề xây dựng GĐVH dựa trên nền tảng là những giá trị của GĐTT. Trong tình hình hiện nay, việc nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý là một yêu cầu cấp bách.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội như Liên đoàn lao động, Hội liên hiệp phụ nữ, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội cựu chiến binh, Hội nông dân... với vai trò tập hợp, tổ chức, tuyên truyền, giáo dục, vận động, động viên các hội viên, thành viên và quần chúng nhân dân, thông qua các phong trào thi đua để góp phần thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Muốn thực hiện tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ được giao, trong đó có việc tổ chức thực hiện phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư mà cốt lõi là xây dựng GĐVH, bao gồm phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH, các tổ chức nói trên cũng phải thường xuyên quan tâm việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực công tác cho đội ngũ cán bộ của mình.
Cùng với HTCT, gia đình và các thành viên trong gia đình là những chủ thế chính đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH. Vì vậy, nâng cao năng lực nhận thức và hành động cho những chủ thể gia đình là đặc biệt quan trọng trong chiến lược xây dựng GĐVH dựa trên
những giá trị truyền thống. Bởi vì, trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt Nam được hình thành và phát triển với những chuẩn mực giá trị tốt đẹp góp phần làm nên bản sắc văn hóa dân tộc. Song, quá trình CNH, HĐH, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, bên cạnh tạo ra nhiều cơ hội, điều kiện thuận lợi để gia đình ở vùng ĐBSH phát triển, cũng đặt gia đình và công tác gia đình ở đây trước nhiều khó khăn, thách thức. Trong bối cảnh đó, để giữ gìn truyền thống tốt đẹp trong mỗi gia đình thì:
Ông bà, cha mẹ phải thể hiện được vai trò “bậc sinh thành” tăng cường giáo dục con cháu (dạy dỗ, chỉ bảo, giải thích, phân tích, thảo luận, nêu dẫn chứng minh họa, thuyết phục... nhằm truyền đạt những kiến thức, sự hiểu biết, kinh nghiệm, kỹ năng cần thiết hoặc làm thay đổi nhận thức, hành vi) về các giá trị văn hóa truyền thống, trong đó có các chuẩn mực đạo đức, lối sống... đồng thời là tấm gương mẫu mực để con cháu noi theo.
Bố mẹ, ngoài việc giáo dục và nêu gương nói trên, cần phải thường xuyên quan tâm giúp đỡ các con học tập, rèn luyện, tăng cường kiểm tra, giám sát mọi hoạt động và mối quan hệ của con, nhất là việc đọc và trao đổi thông tin qua mạng Internet của con để sớm phát hiện, ngăn chặn những ảnh hưởng có hại tới đạo đức, nhân cách của con trẻ, thuần phong mỹ tục và các giá trị văn hóa tốt đẹp của gia đình Việt nam truyền thống, đồng thời hướng cho con tiếp thu những gì là tinh hoa văn hóa nhân loại.
Anh, chị em ruột trong gia đình cần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ nhau trong học tập, rèn luyện, khuyên nhủ nhau giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình, sống hiếu thảo, vâng lời ông bà, cha mẹ, hòa thuận với mọi người trong gia đình, sống lương thiện và hòa nhập với cộng đồng xã hội.
Muốn làm được như vậy, mỗi người trong gia đình phải không ngừng học tập, rèn luyện, học ở nhà trường, qua sách báo và cả thực tế cuộc sống để nâng cao trình độ mọi mặt, nâng cao năng lực nhận thức và hành động cho bản thân.
Để thực hiện tốt giải pháp nâng cao vai trò và năng lực các chủ thể phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH trong giai đoạn hiện nay, ngoài việc tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ cán bộ, HTCT mà trước hết là Đảng và Nhà nước cần đưa cán bộ vào “tôi luyện” qua các phong trào, các hoạt động thực tiễn, nhất là hoạt động ở cấp huyện, xã. Thông qua các phong trào, các
hoạt động thực tiễn, cán bộ sẽ gần dân, học hỏỉ ở dân được nhiều điều, nâng cao được năng lực tổ chức, tuyên truyền, vận động, nâng cao khả năng xử lý tình huống và giải quyết các mâu thuẫn phát sinh trong thực tiễn đời sống xã hội và rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm cần thiết. Đối với phong trào xây dựng nếp sống văn minh và GĐVH ở nước ta nói chung, vùng ĐBSH nói riêng, các chủ thể phát huy thuộc HTCT cùng các gia đình cần làm tốt những công việc mà qua đó góp phần nâng cao vai trò và năng lực của mình, cụ thể như sau:
Một là, xây dựng gia đình văn hóa phải gắn kết với các phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Đại hội XI của Đảng chỉ rõ cần kết hợp, phát huy đầy đủ vai trò của gia đình, nhà trường, xã hội, của từng tập thể lao động, các đoàn thể, cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam. Đại hội XII của Đảng đề ra nhiệm vụ là: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” [30, tr.78] và khi xác định sáu nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ lại nhấn mạnh: “phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh”. Đây là nội dung quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về nhiệm vụ xây dựng, phát triển nguồn lực con người trong bối cảnh hiện nay. Do vậy, việc xây dựng GĐVH phải gắn chặt với việc xây dựng con người Việt Nam trong thời đại mới; cần đưa phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đi vào cuộc sống theo chiều sâu, thiết thực, hiệu quả, tránh tình trạng hình thức; xây dựng nếp sống văn hóa từ các gia đình đến khu dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp…; phải tạo điều kiện tối đa cho mọi người được tiếp cận với các kiến thức về kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, y tế và phúc lợi xã hội; giúp các gia đình có kỹ năng sống, chủ động phòng, chống sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội, kế thừa, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Xây dựng và nhân rộng các mô hình GĐVH tiêu biểu, có nền nếp, ông bà, cha mẹ gương mẫu, con cháu thảo hiền chăm ngoan, vợ chồng hòa thuận, anh chị em đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau. Xây dựng các câu lạc bộ gia đình phát triển bền vững, lồng ghép hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình trong việc thực hiện các tiêu chí của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây