xảy ra tình trạng pháp luật không rõ ràng, không đầy đủ làm nảy sinh tâm lý chây ỳ, không trả nợ nhằm hưởng lợi từ quyền được nắm giữ, khai thác tài sản bảo đảm.
Giải quyết hài hòa các quyền lợi hợp pháp, chính đáng giữa các chủ thể hợp đồng nêu trên là công việc khó khăn đối với các nhà làm luật. Bởi trong chừng mực nhất định, quyền lợi của từng chủ thể mâu thuẫn, đối lập nhau (lợi ích công và tư thông thường khác nhau).
2.3.2. Tiêu chí đánh giá hiệu quả áp dụng pháp luật hợp đồng cho vay
2.3.2.1. Giao dịch vay hướng đến mục tiêu phục vụ doanh nghiệp và cộng đồng
Pháp luật HĐCV được xây dựng gắn liền các mục tiêu kinh tế, các TCTD phải tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận vốn vay thuận lợi thông qua công tác cải cách thủ tục cho vay; mở rộng hình thức bảo đảm tiền vay, đa dạng phương thức thanh toán,... Các ưu đãi về điều kiện cho vay, cho vay tín chấp đối với những đối tượng chính sách cần được mở rộng, áp dụng cho cả các NHTM (có sự hỗ trợ chi phí từ nhà nước) để bảo đảm sự tham gia của cả hệ thống tín dụng ngân hàng vì lợi ích công cộng, thay vì chỉ tập trung kinh doanh, sinh lời.
Thực tiễn minh chứng cho thấy, tình trạng tín dụng “đen” phát triển mạnh như hiện nay có phần nguyên nhân từ thủ tục vay của ngân hàng rối rắm, phức tạp, nhiều trường hợp phải tốn kém chi phí cho các cán bộ tín dụng mới được vay vốn. Do đó yêu cầu đơn giản hóa thủ tục cho vay, hỗ trợ của nhà nước vẫn phải tiếp tục đặt ra để nổ lực đạt được, không chỉ dành riêng cho ngân hàng chính sách xã hội, mà áp dụng cả đối với các NHTM.
Tiêu chí này là thước đo đánh giá hiệu quả kinh doanh của các TCTD. Nghĩa là, bên cạnh lợi ích kinh tế, các TCTD phải đóng góp cho lợi ích của cộng đồng, đảm bảo quyền tiếp cận tín dụng vì các mục tiêu lâu dài, bền vững của nền kinh tế, tránh trường hợp tập trung cho vay một vài chủ thể, nhóm lợi ích nhất định mang lại rủi ro, nguy cơ cao cho các TCTD.
2.3.2.2. Yêu cầu giảm thiểu rủi ro, an toàn cho các tổ chức tín dụng khi cho vay
Điều quan trọng nhất của công tác cho vay là phải đánh giá khả năng tài chính của khách hàng, bao gồm cả thu nhập có được do việc sử dụng vốn vay. Qua phỏng vấn tín dụng, xem xét các tài liệu chứng từ do bên vay cung cấp, cán bộ tín dụng có thể nhận thấy được năng lực tài chính của khách hàng, củng cố thêm niềm tin cho các TCTD trước khi quyết định cho vay. Đây cũng là tiêu chí để bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền vay, an toàn cho vay. Đồng nghĩa rằng, TCTD phải suy tính đến tài sản hình thành từ vốn vay thay vì chỉ chú trọng đến một lượng tài sản bảo đảm nhất định đang có của bên vay.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Yếu Tố Phát Sinh, Thay Đổi Hoặc Chấm Dứt Quan Hệ Pháp Luật Về Hợp Đồng Cho Vay
- Nội Dung Của Quan Hệ Pháp Luật Về Hợp Đồng Cho Vay
- Giao Kết, Thực Hiện Và Giải Quyết Tranh Chấp Hợp Đồng Cho Vay
- Quyền Tiếp Cận Tín Dụng Của Khách Hàng Tiềm Năng
- Mối Quan Hệ Pháp Lý Đối Với Hợp Đồng Bảo Đảm
- Quy Định Về Mục Đích Sử Dụng Vốn, Kiểm Tra Giám Sát Sử Dụng Vốn Vay
Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.
Pháp luật ngân hàng đã phân định rõ các trách nhiệm giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay. Việc thành lập các công ty trực thuộc của TCTD có chức năng định giá để tiết giảm chi phí, đơn giản thủ tục nhưng phải tuân thủ các nguyên tắc, phương pháp thẩm định. Trong đó các yêu cầu cơ bản của công tác thẩm định (yếu tố
độc lập, khách quan, đúng giá trị thị trường, tài sản hợp pháp…) phải được chấp hành nghiêm túc.
Một quy trình cho vay an toàn, hiệu quả đòi hỏi các TCTD phải thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ, kịp thời phát hiện sai phạm, dự liệu những khả năng có thể xảy ra mất vốn, sớm có biện pháp ngăn chặn ngay từ khâu thẩm định, quyết định cho vay. Đây là những tiêu chí thiết thực để đánh giá hiệu quả áp dụng pháp luật của các TCTD.
2.3.2.3. Pháp luật hợp đồng cho vay tạo cơ chế xử lý nợ nhanh chóng, hiệu quả
Các khoản nợ phát sinh từ HĐCV được xử lý dựa trên nguyên tắc ưu tiên áp dụng các điều khoản được thỏa thuận ghi trong hợp đồng. Mặc dù vậy, những mâu thuẫn tranh chấp trong quá trình xử lý nợ vẫn xảy ra, khi đó lựa chọn áp dụng pháp luật để giải quyết là nhu cầu cần thiết, trên cơ sở bảo đảm công tác xử lý nợ được nhanh chóng, hiệu quả, bảo đảm mục tiêu xử lý nợ, cải cách trong hoạt động cho vay của các TCTD.
Bảo đảm quyền chủ động thu hồi tài sản để xử lý, cấn trừ nợ theo đúng pháp luật, thay vì phụ thuộc quá nhiều vào hoạt động tố tụng tại tòa án, trọng tài. Công tác áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn, nhanh chóng thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý theo Điều 8 Nghị quyết số 42/2017/QH14 cần được các ngành, các cấp nhanh chóng triển khai, thực thi nghiêm túc.
Xây dựng và phát triển án lệ về tín dụng nhằm làm rõ những quy định của pháp luật còn nhiều cách hiểu khác nhau để áp dụng thống nhất,99 có ý nghĩa quan trọng, giúp cho các TCTD biết được đường lối giải quyết án tín dụng đúng pháp luật của tòa án, từ đó TCTD chủ động lựa chọn phương án giải quyết tranh chấp hiệu quả.
Tóm lại, hệ thống tiêu chí trên đã thể hiện các yêu cầu hiệu quả, an toàn khi cho vay. Trong đó, quyền lợi của các bên hợp đồng được bảo đảm, vì mục tiêu xây dựng hệ thống tài chính, ngân hàng lành mạnh, an toàn. Đáp ứng tiêu chí này sẽ tăng cường hiệu quả áp dụng pháp luật, giải quyết các mục tiêu kinh tế, bảo đảm quyền tự do, tự chủ kinh doanh, bảo đảm lợi ích chính đáng của các bên tham gia quan hệ HĐCV. Điều cần thiết, cấp bách hiện nay đó là phải đi sâu tìm hiểu để đánh giá đúng thực trạng pháp luật về HĐCV, từ đó nhận dạng, định vị những vấn đề của pháp luật về HĐCV cần được khắc phục, sửa đổi, bổ sung cụ thể.
99 Xem thêm: Điều 2 Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28/10/2015 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ
Kết luận chương 2
Từ việc xây dựng mô hình lý luận xuyên suốt của chế định hợp đồng với những đặc thù của quan hệ cho vay, luận án đã tiếp cận, giải quyết những vấn đề sau đây:
- Hệ thống quá trình hình thành, phát triển của HĐCV trong pháp luật và khoa học pháp lý. Tiếp thu các quan điểm trong khoa học, bổ sung thêm luận điểm khẳng định quan hệ HĐCV được hình thành là tất yếu khách quan, cần có định chế trung gian đi vay để cho vay, điều tiết nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, thay vì các bên giao dịch trực tiếp, không đảm bảo cung ứng nguồn vốn lớn, thiếu ổn định, an toàn.
- Tiếp tục kế thừa quan điểm trong khoa học pháp lý khẳng định HĐCV là một dạng đặc biệt của hợp đồng vay tài sản. Bên cạnh đó, luận án đã tập trung phân tích sự khác biệt của hai dạng hợp đồng này về đặc điểm chủ thể, đặc điểm đối tượng, lý giải nguyên nhân vì sao HĐCV chịu sự điều chỉnh của pháp luật chuyên ngành ngân hàng tương tự như pháp luật một số nước.
- Với các khái niệm trong khoa học và pháp luật thực định về HĐCV, luận án đã đề cập về những tương đồng và khác biệt trong cách tiếp cận các khái niệm này. Đồng thời luận án tập trung phân tích những đặc thù của quan hệ cho vay tiêu dùng đang phát triển mạnh, vốn dĩ vẫn chưa được chú trọng trong nghiên cứu khoa học, bổ sung thêm luận điểm trong các khái niệm về HĐCV được đầy đủ hơn.
- Nhận diện những điểm đặc thù của HĐCV với các hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại, làm rõ bản chất pháp lý và kinh tế tác động đến quan hệ này; các nội dung pháp luật về HĐCV và những căn cứ pháp lý làm phát sinh thay đổi, chấm dứt pháp luật,… làm cơ sở lý luận cho công việc nghiên cứu, đưa ra những luận điểm có giá trị khoa học.
- Luận án đặt ra các tiêu chí đánh giá chất lượng pháp luật về HĐCV dựa trên tiêu chí trong khoa học của quan hệ HĐCV, kết hợp với thực tiễn chủ trương, chính sách của nhà nước, yêu cầu hiệu quả thực thi pháp luật. Các tiêu chí này được khảo sát, có ý nghĩa tham khảo, làm cơ sở đánh giá ưu khuyết điểm và các kiến nghị về chất lượng thực thi pháp luật.
Kết quả nghiên cứu trên đã trả lời cho những câu hỏi về những cơ sở lý luận của một chế định hợp đồng có ý nghĩa quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội. Đồng thời nghiên cứu đã xây dựng khung lý thuyết làm cơ sở giải quyết những vấn đề lý luận xuyên suốt luận án, nhìn nhận những ưu khuyết điểm, nguyên nhân từ góc độ thực thi, ban hành pháp luật. Trong từng đề mục của chương này, luận án bước đầu phát thảo những vấn đề thuộc về lý luận; những gợi mở, định hướng nghiên cứu cần tiếp tục giải quyết ở các chương tiếp theo của luận án. Đó là các vấn đề lý luận về: lợi ích và nguy cơ đối với khách hàng vay tiềm năng, quyền được tiếp cận tín dụng của bên vay; vấn đề bình đẳng hợp đồng, bảo vệ quyền lợi bên yếu thế trong quan hệ tín dụng thương mại; công tác xét duyệt tín dụng (giai đoạn tiền hợp đồng) và trách nhiệm phát sinh; phạm vi, mức độ can thiệp của nhà nước để bảo đảm an toàn vay.
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CHO VAY TRONG LĨNH VỰC TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
3.1. CÁC QUY ĐỊNH VỀ CHỦ THỂ CỦA HỢP ĐỒNG CHO VAY
3.1.1. Năng lực pháp lý của chủ thể hợp đồng cho vay
a) Các bên tham gia quan hệ hợp đồng cho vay
- Đối với bên cho vay (tổ chức tín dụng):
Hoạt động của các TCTD gắn liền với hoạt động kinh doanh tiền tệ, thuộc lĩnh vực kinh doanh đặc thù có điều kiện. Các điều kiện kinh doanh này phải được sự thẩm tra, chấp thuận bằng văn bản của NHNN trước khi đăng ký thành lập (Điều 20 Luật Các TCTD năm 2010; Điều 26 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp). Các TCTD như đã được luận án đề cập vốn dĩ đa dạng về hình thức sở hữu, có địa vị pháp lý không đồng đều, mục tiêu cho vay vì các lợi ích khác nhau (ngay cả các NHTM, những ngân hàng do nhà nước bỏ vốn thành lập thường thực hiện tốt chức năng điều tiết vốn, giải quyết tốt hơn các chủ trương, chính sách cho vay). Vì vậy, trong từng HĐCV của từng TCTD được ký kết, các điều khoản hợp đồng cũng có những khác biệt cơ bản.
Giao dịch cho vay của các TCTD thường được thực hiện trực tiếp thông qua các chi nhánh, phòng giao dịch, là những đơn vị phụ thuộc (khoản 1, Điều 84 BLDS năm 2015), không phải là chủ thể của HĐCV. Các đơn vị này thực hiện giao dịch theo sự ủy quyền của người đứng đầu pháp nhân trong phạm vi chức năng, quyền hạn được đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước thẩm quyền.
Về trường hợp có nhiều TCTD tham gia quan hệ cho vay hợp vốn, quan hệ giữa các bên được thực hiện thông qua hình thức pháp lý duy nhất là hợp đồng cấp tín dụng hợp vốn giữa các TCTD đối với khách hàng. Để bảo đảm nguyên tắc tự chủ giữa bên vay hợp vốn với bên cho vay hợp vốn và giữa các TCTD cho vay (cấp tín dụng) hợp vốn với nhau, pháp luật ngân hàng đã linh hoạt đặt ra hai hình thức giao kết hợp đồng, nêu rõ các điều khoản chủ yếu của từng hợp đồng đó để vận dụng: i) Hợp đồng hợp vốn giữa các TCTD: Hợp đồng này được ký kết giữa các thành viên tham gia cấp tín dụng hợp vốn; ii) Hợp đồng tín dụng hợp vốn đối với khách hàng: Do các thành viên tham gia ký kết hoặc ủy quyền cho thành viên đầu mối đại diện cho bên cấp tín dụng hợp vốn ký với khách hàng (theo Điều 11, 12 Thông tư số 42/2011/TT-NHNN ngày 15/12/2011 được sửa đổi bổ sung năm 2016); đồng thời mở rộng, cho phép các TCTD (kể cả các TCTD nước ngoài) được cấp tín dụng hợp vốn để thực hiện dự án nước ngoài, được tự chủ cho vay.
Nhưng qua nghiên cứu cho thấy, quan hệ pháp luật về cho vay hợp vốn theo quy định hiện hành vẫn còn tồn tại những bất cập. Với sự tham gia của nhiều TCTD
(tư cách là bên cho vay), vai trò, trách nhiệm không chỉ dừng lại ở TCTD đầu mối, đó còn là sự liên đới trách nhiệm, cơ chế kiểm soát tín dụng với nhau vốn dĩ vẫn chưa được pháp luật quy định chặt chẽ. Nếu chỉ đơn thuần dựa trên sự thỏa thuận, quy định này sẽ không tránh khỏi sự bất bình đẳng, thiếu một cơ chế đồng thuận kiểm soát hợp đồng cấp tín dụng đạt hiệu quả.
Đối với công ty tài chính (một dạng TCTD), pháp luật cho phép tiến hành cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu vốn mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng (khoản 1, Điều 2; khoản 1 Điều 3 Thông tư số 43/2016/TT-NHNN). Vô hình chung những quy định này gây hiểu nhầm rằng, chỉ có các công ty tài chính mới được phép cho vay tiêu dùng. Song, nếu cho rằng các NHTM cũng có chức năng cho vay, kể cả cho vay tiêu dùng là chưa phù hợp với các nguyên tắc pháp lý đặc thù áp dụng đối với quan hệ HĐCV tiêu dùng (Điều 10 Thông tư số 43/2016/TT-NHNN). Điều này làm cho các quy định về cho vay tiêu dùng bị bó hẹp về phạm vi điều chỉnh, chưa bảo đảm quyền lợi của người vay nói chung. Vì vậy, nghiên cứu, sửa đổi các quy định về chủ thể cho vay, phạm vi hoạt động cho vay tiêu dùng không chỉ dừng lại ở việc phân bổ lợi nhuận cho các doanh nghiệp, đó còn là tính phù hợp của nhóm các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh, quyền lợi hợp pháp, chính đáng cho bên vay tiêu dùng, không phân biệt chủ thể cho vay là các NHTM hay công ty tài chính, như pháp luật các nước thường đề cập.100
- Đối với bên vay (tổ chức, cá nhân còn gọi là “khách hàng vay”):
+ Khách hàng là tổ chức (có tư cách pháp nhân): Bao gồm, công ty trách nhiệm hữu hạn từ 02 đến 50 thành viên, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty hợp danh. Hoạt động của các đơn vị kinh tế này do người đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền nhân danh đơn vị đó thực hiện.
Quy định về thẩm quyền của các đơn vị phụ thuộc (chi nhánh, văn phòng đại diện) bấy lâu nay vẫn thực hiện theo quy định của pháp luật dân sự, doanh nghiệp. Chẳng hạn, Điều 10 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 về đăng ký doanh nghiệp quy định cụ thể nội dung, phạm vi; các tài liệu về biên bản họp; quyết định bổ nhiệm người đứng đầu chi nhánh văn phòng đại diện; các giấy tờ chứng thực cá nhân của người đứng đầu chi nhánh, văn phòng đại diện… Đây là những tài liệu, chứng từ chứng minh năng lực và thẩm quyền của người đứng đầu đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, đã được các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thẩm tra, đăng ký, xác lập theo trình tự hợp pháp, rõ ràng nhất.
+ Khách hàng là cá nhân: Cá nhân chưa thành niên từ đủ 15 đến 18 tuổi, không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự. Nhưng khi ký kết các giao dịch thế chấp, bảo lãnh tài sản bảo đảm là bất động sản, hoặc những động sản bắt buộc phải qua đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước (nhà đất, phương tiện giao thông cơ giới,…) thì giao
100 Vấn đề này được luận án quan tâm, đưa ra các kiến nghị sửa đổi luật dựa trên kinh nghiệm của pháp luật một số nước trên thế giới của cả hai hệ thống luật điều chỉnh hoạt động cho vay tiêu dùng, mục 4.3.4 của luận án.
dịch của các cá nhân này phải có người đại diện theo pháp luật đồng ý (khoản 4, Điều 21 BLDS năm 2015).
Đối với hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức không có tư cách pháp nhân, pháp luật ngân hàng hiện nay đã sửa đổi, không trao quyền lựa chọn mở tài khoản đứng tên cá nhân với tư cách là chủ tài khoản của tổ chức không có tư cách pháp nhân (khoản 6, Điều 1 Thông tư số 32/2016/TT-NHNN ngày 26/12/2016 của Thống đốc NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 23/2014/TT-NHNN ngày 19/8/2014 hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán). Bên cạnh đó, Thông tư số 39/2016/TT-NHNN còn cá thể hóa chủ thể chịu trách nhiệm bằng tài sản khi tham gia quan hệ HĐCV.
Đây là điểm mới của pháp luật nói chung, pháp luật ngân hàng nói riêng, quy định này giải quyết nhiều vướng mắc khi cho vay hộ gia đình, tổ hợp tác trước đây, có bảo đảm tài sản của chính bên vay. Khi đó, hợp đồng vay và giao dịch tài sản của các chủ thể này bắt buộc phải có đồng thuận, gây tâm lý e ngại cho vay đối tượng này sẽ gây thiệt hại cho TCTD. Với các quy định mới, thiết nghĩ sẽ khắc phục tình trạng cho vay những đối tượng này bị tuyên vô hiệu, do không xác định đầy đủ ý chí đồng thuận của các thành viên, vì khi đó trách nhiệm từng thành viên vẫn được đặt ra.101
Mặc dù vậy, các tổ chức không có tư cách pháp nhân được pháp luật dân sự, kinh doanh ghi nhận vẫn có thể tham gia quan hệ tín dụng, có quyền ký kết thực hiện HĐCV xuất phát từ tính đồng bộ của pháp luật dân sự, kinh doanh hay các nhu cầu mở rộng, tham gia ký kết hợp đồng kinh tế được pháp luật thừa nhận. Người đứng đầu tổ chức không có tư cách pháp nhân có thể ký kết các HĐCV, chịu trách nhiệm pháp lý (bên cạnh các quyền năng) tương tự như các chủ thể hợp đồng dân sự, kinh tế khác.
b) Người đại diện của các bên ký kết hợp đồng cho vay
Năng lực của người đại diện được thực hiện theo quy định của pháp luật hoặc theo ủy quyền.
- Đại diện theo pháp luật:
Hình thức đại diện do pháp luật quy định, hoặc do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định (Điều 134, 135, 136 BLDS năm 2015):
i) Đối với tổ chức: Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân là những người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ, người có thẩm quyền đại diện theo pháp luật, người do tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại tòa án (khoản 1, Điều 137 BLDS năm 2015).
Điểm mới hiện nay, pháp luật doanh nghiệp cho phép công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật để thuận lợi cho việc xác lập các giao dịch, nhân danh công ty quản lý điều hành khi
101 Xem thêm: Phan Huy Hồng, Nguyễn Thanh Tú (2017), Tư cách tham gia quan hệ dân sự của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân theo Bộ luật dân sự năm 2015, Khoa học pháp lý số 06 (109), tr. 4-5
người đại diện khác đi vắng, nhưng phải ghi rõ trong điều lệ công ty (khoản 2, Điều 137 BLDS năm 2015; khoản 2, Điều 13 Luật Doanh nghiệp năm 2014). Quy định này đúng như được đánh giá, có ý nghĩa “giúp hai loại công ty này có thêm khả năng duy trì năng lực hành vi”102, nhưng cũng làm tăng trách nhiệm của bên cho vay như các nghiên cứu đã khuyến cáo.103
Thật vậy, với các viện dẫn cho thấy, năng lực của người đại diện theo pháp luật đến đâu phụ thuộc vào quy định nội bộ của doanh nghiệp đó. Các TCTD giờ đây khi cho vay phải có trách nhiệm tìm hiểu, xác minh cá nhân nào là người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp (bên vay), có quyền quyết định và ký kết HĐCV theo đúng thẩm quyền, thay vì chỉ đơn thuần dựa vào thông tin ghi trên giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (do cơ quan đăng ký kinh doanh cấp) ghi tên duy nhất một người đại diện pháp luật như các quy định trước đây. Đây là công việc phức tạp, khó thực hiện, khó tránh khỏi xảy ra tình trạng các doanh nghiệp lợi dụng quy định này để tạo “bẫy” vô hiệu đối với giao dịch vay do người dưới quyền xác lập, nếu giao dịch ấy không đem lại lợi ích cho họ.
ii) Đối với cá nhân: Đó là cha, mẹ đối với con chưa thành niên; người giám hộ đối với người được giám hộ; người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được tòa án chỉ định; người do tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự (Điều 136 BLDS năm 2015).
- Đại diện theo ủy quyền:
Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự (khoản 1, Điều 138 BLDS năm 2015). Văn bản ủy quyền phải được lập thành hợp đồng (Điều 562 BLDS năm 2015), có sự đồng ý của bên nhận ủy quyền tương tự như các quy định của pháp luật dân sự trước đây.
Về nguyên tắc, người đại điện theo ủy quyền chỉ được thực hiện công việc trong phạm vi được ủy quyền, nếu vượt quá phạm vi ủy quyền sẽ không làm phát sinh nghĩa vụ đối với người ủy quyền. Đối với người đứng đầu đơn vị phụ thuộc pháp nhân (chi nhánh, văn phòng đại diện) thì năng lực, thẩm quyền của cá nhân này được kiểm tra công nhận của cơ quan đăng ký kinh doanh, đương nhiên sẽ là người đại diện trong các giao dịch nhân danh pháp nhân đó. Tòa án khi giải quyết tranh chấp HĐCV thường yêu cầu những người nêu trên phải có giấy ủy quyền tham gia khi tố tụng (tranh chấp đưa ra các cơ quan tài phán giải quyết) thiết nghĩ yêu cầu này là không phù hợp, làm gia tăng rủi ro do phát sinh ủy quyền trái pháp luật.
Trong quan hệ tố tụng, dựa vào đặc điểm chủ thể bên vay với mục đích vay để xác định quan hệ dân sự hoặc kinh doanh, thương mại. Bản án, quyết định của tòa án, trọng tài xác định sai tư cách chủ thể hợp đồng, sẽ dẫn đến xác định sai tư cách đương
102 Phan Huy Hồng (2015), Những quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014 và luật đầu tư năm 2014 tác động đến tự do hợp đồng, Tài liệu Hội thảo Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2014: Những đổi mới nhằm hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh (Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh), tr. 190
103 Phan Huy Hồng (2015), Tlđd (102), tr. 191
sự tham gia tố tụng, áp dụng sai luật. Phán quyết của các cơ quan này có thể bị tuyên hủy, sửa như nhiều bản án, quyết định của tòa án, trọng tài đã công bố. Để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các bên của hợp đồng vay, ngành tòa án từng ban hành các quy định theo hướng bảo đảm quyền lợi của bên ngay tình.104
Tiếp thu những ưu điểm này, pháp luật dân sự tiếp tục ghi nhận, củng cố quy định này điều chỉnh cho các giao dịch dân sự, thay vì chỉ giới hạn trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại như trước đây. Thật vậy, khoản 1, Điều 142 BLDS năm 2015 có hiệu lực hiện nay quy định về hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ một trong các trường hợp sau đây: “a) Người được đại diện đã công nhận giao dịch; b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý…”. Các biểu hiện của hành vi “công nhận giao dịch”, “biết mà không phản đối” đối với chủ thể là doanh nghiệp thông thường bao gồm: hành vi đồng ý thanh toán tiền, giao nhận hàng; cấp hóa đơn, chứng từ giao dịch, kê khai nộp thuế…, là những căn cứ áp dụng xuất phát từ trách nhiệm nội bộ trong hoạt động quản trị của doanh nghiệp. Các cá nhân quản lý doanh nghiệp đó biết rõ tình trạng pháp lý của hợp đồng, nên doanh nghiệp vẫn phải gánh chịu về những hệ quả phát sinh, cho dù người ký kết hợp đồng không đúng thẩm quyền.
3.1.2. Quy định về cấm hoặc giới hạn cho vay
Hoạt động cho vay trong lĩnh vực ngân hàng luôn mang tính rủi ro cao, các giới hạn cho vay được pháp luật đặt ra như một công cụ để kiểm soát, bảo đảm an toàn vay, hạn chế những rủi ro đó. Quy định này không làm cản trở quyền tự do kinh doanh, không cản trở quyền tiếp cận tín dụng của các tổ chức, cá nhân, mục đích này là nhằm phân tán rủi ro, bảo đảm giao dịch vay được khách quan, đạt chuẩn theo quy định.
Về phương diện nghiên cứu so sánh: Pháp luật ngân hàng các nước trên thế giới đều áp dụng biện pháp giới hạn này đối với một số đối tượng khách hàng vay, dựa theo các tiêu chí pháp lý cụ thể như sau:
- Giới hạn về điều kiện vay:
i) Tại Hoa Kỳ: Pháp luật hạn chế cho vay trong nội bộ TCTD đối với: nhân viên điều hành, giám đốc, các cổ đông chính, hoặc bất kỳ lợi ích liên quan những người này. Trường hợp cho vay thì không được phép có những điều khoản thuận lợi hơn các khoản vay của người vay khác. Người vay phải đáp ứng các điều kiện về tài chính, thủ tục thế chấp bảo đảm chặt chẽ, và bắt buộc phải thông báo cho Hội đồng quản trị biết ((1), (2) 12 U.S.C § 375a105);
104 Xem thêm: Nghị quyết số 04/2003 ngày 27/5/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các vụ án kinh tế
105 “U.S.C” viết tắt của từ “U.S.Code” theo nghĩa là Bộ luật Hoa Kỳ