Bên vay vay vốn nhằm thực hiện các mục tiêu tài chính của mình, trường hợp TCTD chấm dứt cho vay trước thời hạn sẽ gặp những khó khăn, trở ngại nhất định. Khoản vay khi đó trở thành khoản nợ của bên vay, TCTD được quyền áp dụng các biện pháp xử lý tài sản để thu hồi nợ. Song, khoản nợ nếu bên vay chậm trả tại thời điểm TCTD ban hành quyết định thu hồi, hậu quả pháp lý như thế nào, pháp luật vẫn chưa quy định cụ thể.
Trên thực tế, mỗi TCTD đều nhận thức ý nghĩa của nghĩa vụ này đối với khách hàng, nên họ (TCTD) tự đặt ra các yêu cầu cung cấp thông tin, tiêu chí về mức độ quan trọng của thông tin cần được cung cấp khác nhau. Chẳng hạn, Cẩm nang tín dụng của Ngân hàng thương mại cổ phần NTVN (công bố vào năm 2004) tại tiểu mục 7.6.2 nêu ra chi tiết các thông tin ngân hàng cần nắm bắt khi tiếp xúc trực tiếp với bên vay là doanh nghiệp về: lịch sử hình thành doanh nghiệp; cơ cấu tổ chức; tình hình nhân sự (cán bộ công nhân viên, ban lãnh đạo, kế toán trưởng); thu nhập; mặt hàng sản xuất kinh doanh chủ yếu; thị trường tiêu thụ chính/mạng lưới phân phối; đối thủ cạnh tranh chủ yếu; điểm mạnh/điểm yếu của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác cùng nghề… Cẩm nang này còn nêu cách thức tiếp cận thông tin: “Nên tiếp xúc trực tiếp với lãnh đạo và kế toán trưởng của doanh nghiệp – là những người biết rõ nhất nhiều loại mảng thông tin…”.
Những đặc điểm nêu trên được xem là kinh nghiệm giá trị, nhằm đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng được TCTD hệ thống hóa với những tiêu chuẩn khá chi tiết, giúp cho các đơn vị phụ thuộc của ngân hàng (chi nhánh, văn phòng đại diện) dễ dàng áp dụng vào thực tiễn khi phân loại khách hàng và thực hiện ưu đãi tín dụng trong tình hình hiện nay (Ví dụ: Quyết định số 72A/NHNo3-TD ban hành ngày 10/1/2018 của Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn VN (Chi nhánh quận 3) có phân loại các tiêu chí xếp hạng tín dụng doanh nghiệp, theo đó quy định áp dụng về lãi suất đối với khách hàng xếp hạng tín dụng nội bộ loại A trở lên hoặc đang ở nhóm 1 có mức lãi suất thấp hơn các trường hợp cho vay thông thường khác, thay vì làm bằng một mức lãi suất cho cùng mọi đối tượng vay).
Tóm lại, thông tin ý nghĩa quan trọng giúp cho các TCTD nắm bắt tình trạng “sức khỏe” của bên vay. Nghĩa vụ này đối với bên vay được tiếp tục kế thừa quy định chặt chẽ, gắn với các biện pháp chế tài cụ thể. Nhưng hậu quả pháp lý nếu bên vay không trả tiền vay khi bị chấm dứt cho vay (về phần lãi suất) vẫn chưa được pháp luật ngân hàng đề cập.130 Đối với bên cho vay, nghĩa vụ cung cấp thông tin tín dụng chỉ giới hạn ở khoản tiền vay, lãi suất, chưa ràng buộc trách nhiệm về những thiệt hại gây ra nếu cung cấp thông tin không kịp thời, chính xác. Vì vậy, quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin trong HĐCV theo như các quy định của pháp luật ngân hàng hiện nay vẫn chưa đầy đủ, chưa cân xứng.
130 Vấn đề này được luận án giải quyết tại Mục 3.3.4.2. Quyền chấm dứt cho vay thu hồi vốn trước hạn theo HĐCV
3.3.2. Quy định về mục đích sử dụng vốn, kiểm tra giám sát sử dụng vốn vay
3.3.2.1. Mục đích sử dụng vốn vay theo pháp luật và thực tiễn, trong và ngoài
Có thể bạn quan tâm!
- Tiêu Chí Đánh Giá Hiệu Quả Áp Dụng Pháp Luật Hợp Đồng Cho Vay
- Quyền Tiếp Cận Tín Dụng Của Khách Hàng Tiềm Năng
- Mối Quan Hệ Pháp Lý Đối Với Hợp Đồng Bảo Đảm
- Thỏa Thuận Lãi Suất, Phí Tín Dụng Trong Hợp Đồng Cho Vay, Nghĩa Vụ Hoàn Trả Nợ Gốc Và Lãi Tiền Vay
- Quy Định Về Cơ Cấu Lại Thời Hạn Trả Nợ, Quyền Chấm Dứt Cho Vay Thu Hồi Vốn Trước Hạn Theo Hợp Đồng Cho Vay
- Xử Lý Tài Sản Theo Hợp Đồng Cho Vay Và Hợp Đồng Bảo Đảm
Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.
nước
a) Quy định theo pháp luật và thực tiễn ở các nước
Theo các nghiên cứu ở nước ngoài: Quy định mục đích sử dụng vốn vay nhằm
xác định ý chí của bên vay dự định sử dụng tiền vay vào kế hoạch, mục tiêu được ấn định trước, khi đó họ mới ý thức tiết kiệm và quyết định tốt hơn về khoản nợ sau này.131 Dựa trên cam kết của khách hàng về mục đích sử dụng vốn, TCTD dễ dàng định giá khoản vay, kiểm soát được năng lực tài chính của khách hàng. Trong bài viết “Thỏa thuận cho vay – Những điều khoản chủ yếu” (Loan agreements - key terms),132 tác giả Martin Gunson còn nhấn mạnh ý nghĩa này, theo đó: “Người mượn có trách nhiệm chỉ sử dụng tiền vay đúng mục đích…”133.
Về phương diện quản lý nhà nước, quy định về mục đích sử dụng vốn được các nhà làm luật đặt ra còn nhằm điều tiết nguồn vốn của công chúng vào nền kinh tế theo mục tiêu, định hướng phát triển của nhà nước. Bằng việc ban hành các quy định về tăng cường (khuyến khích cho vay) hoặc hạn chế cho vay, nhà nước khuyến khích sản xuất, kinh doanh một số lĩnh vực theo nhu cầu của đời sống xã hội, tăng cường kiểm soát dòng tín dụng, tránh để dòng vốn vay đi chệch hướng vào các lĩnh vực nhạy cảm, gây bất ổn, rủi ro cho các ngân hàng,…
Công tác kiểm soát tín dụng vĩ mô bằng phương thức này đã khẳng định vai trò quản lý, định hướng phát triển kinh tế của nhà nước như các lý thuyết về kinh tế, mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế được luận án đề cập phân tích. Sự can thiệp của nhà nước vào các quan hệ kinh tế, dân sự là yêu cầu bắt buộc, khẳng định lợi ích hợp đồng không chỉ giới hạn ở các bên (bên vay và bên cho vay) trực tiếp tham gia hợp đồng, đó còn là lợi ích của cộng đồng, xã hội, trong đó có sự tham gia điều tiết của nhà nước đối với nền kinh tế.
Quy định này tương tự như pháp luật nhiều nước, tuy nhiên, phạm vi giới hạn trong từng quốc gia có những khác biệt. Chẳng hạn, tại Trung Quốc, pháp luật quốc gia này chỉ quy định cụ thể giới hạn cho vay theo chính sách công nghiệp của nhà
131 Nguyên văn: “When you borrow money, it’s important to know how loans work. With a better understanding of loans, you can save money and make better decisions about debt - including when to avoid it. Learn how loans work before you start borrowing”. Xem: Justin Pritchart (2016), What Can I Use My Loan Money For (Tôi có thể sử dụng tiền vay đề làm gì)?, https://www.thebalance.com/what-can-i-use-my-loan-money-for-315568, truy cập lúc 20:46 ngày 05/1/2019
132 Loan agreements - key terms, http://www.out-law.com/topics/financial-services/banking/loan-agree, truy cập lúc 20:28 ngày 11/1/2017
133 Nguyên văn: “The borrower has a duty to only use the money for the specified purpose and hence a trust arises under which the borrower holds the money on trust for the lender until such time as they use the money for the specified purpose”. Xem: Martin Gunson (2013), Purpose clause in a loan or grant agreement (Điều khoản mục đích trong thỏa thuận cấp hoặc cho vay), http://www.bwbllp.com/file/property-win13-purpose-clause-pdf, truy cập lúc 21:57, ngày 13/1/2017
nước, không đề cập đến các lĩnh vực, ngành nghề kinh tế khác (Điều 34 Luật NHTM Trung Quốc).
Nghiên cứu pháp luật một số nước theo hệ thống luật thành văn (civil law):
Pháp luật các nước theo hệ thống luật này không thống nhất trong các quy định về mục đích sử dụng vốn vay: i) Pháp luật ngân hàng của Đức, Malaysia không đề cập đến nghĩa vụ này trong HĐCV; ii) Pháp luật Trung Quốc quy định về mục đích sử dụng vốn vay tương đối cụ thể (cả trong lĩnh vực ngân hàng và dân sự): Theo Chương XII Luật Hợp đồng Trung Quốc năm 1999 tại Điều 203 quy định, nếu bên vay (trong quan hệ dân sự) có lỗi sử dụng tiền vay không đúng mục đích, bên cho vay được quyền chấm dứt cho vay, thu hồi nợ trước hạn hoặc hủy bỏ hợp đồng. Trong lĩnh vực ngân hàng, pháp luật quy định HĐTD bắt buộc phải có mục đích sử dụng vốn vay. Bên cạnh đó, TCTD phải thực hiện kiểm tra nghiêm ngặt việc sử dụng, khả năng và hình thức hoàn trả cũng như các vấn đề liên quan khác của người vay (Điều 35, 37 Luật NHTM Trung Quốc).
Mặc dù pháp luật các nước tiếp cận và có các quy định khác nhau về mục đích sử dụng vốn vay, nhưng thực tiễn hợp đồng vay của các ngân hàng nước ngoài, quy định này vẫn thường được đặt ra như một cam kết giữa bên vay đối với bên cho vay. Theo cam kết này thì: “Hợp đồng vay được ký kết là bằng chứng cho thấy người vay và người cho vay có một cam kết vốn vay sẽ được sử dụng mục đích cụ thể…. Nếu số tiền không được sử dụng cho các mục đích quy định, nó sẽ được trả lại cho bên cho vay ngay lập tức”134.
Thật vậy, pháp luật Việt Nam có sự tương đồng về điểm này, hơn thế nữa không chỉ dừng lại ở nghĩa vụ hoàn trả tiền vay ngay lập tức, pháp luật còn đặt ra các biện pháp chế tài cần thiết, tương tự như hành vi vi phạm nghĩa vụ hoàn trả tiền vay, song lãi suất chậm trả vẫn là lãi suất trong hạn, được ghi trong HĐCV.
Như vậy, quy định sử dụng vốn vay đúng mục đích là nghĩa vụ bắt buộc đối với bên vay, được luật hóa trong thực tiễn pháp lý và giao kết hợp đồng tại Việt Nam cũng như ở các nước trên thế giới. Quy định này gắn liền với trách nhiệm kiểm tra, giám sát của TCTD nhằm bảo đảm công tác quản trị, phòng ngừa rủi ro hiệu quả của TCTD xuyên suốt quá trình thực hiện hợp đồng. Khó có thể tìm thấy bất kỳ một HĐCV nào được ký kết trong thực tế mà không thể hiện mục đích sử dụng vốn vay, ngay cả trong các HĐCV giữa Chính phủ với các định chế tài chính quốc tế (Ví dụ: Hợp đồng tín dụng số 4558D giữa Chính phủ Irac với Ngân hàng tái thiết và phát triển Quốc tế ký ngày 29/3/2001 ghi rõ mục đích cho vay nhằm thực hiện Dự án đường ống dẫn dầu và phát triển dầu khí).135
134 Nguyên văn: “The signed loan contract is proof that the borrower and the lender have a commitment that funds will be used for a specified purpose, how the loan will be paid back and at what amortization rate. If the money is not used for the specified purpose, it should be paid back to the lender immediately.”. Xem thêm: What is a Loan Agreement? (Hproof that the borrower https://www.debt.org/credit/loans/contracts, truy c and the lender have a commi
135 Xem tại: http://siteresources.worldbank.org/INTCHADCAMPIPE/Resources/td_la_en.pdf, tr. 20, truy cập lúc 03:5 ngày 25/6/2017
b) Thực trạng pháp luật về sử dụng vốn vay đúng mục đích và thực tiễn áp dụng tại các tổ chức tín dụng Việt Nam
Pháp luật ngân hàng Việt Nam quy định về sử dụng vốn vay đúng mục đích là điều khoản chủ yếu của hợp đồng vay. Quy định bên vay sử dụng vốn vay không chỉ đúng mục đích mà còn phải hiệu quả, được ghi nhận trong các văn bản pháp luật chuyên ngành ngân hàng trước đây. Chẳng hạn, Chỉ thị số 05 NH/CT ngày 15/1/1975 về hoạt động cho vay mở rộng diện tích phát triển nông, lâm nghiệp ở trung du và miền núi quy định (điều kiện giải ngân) được nhận tiền vay dần theo mức độ thực hiện kế hoạch, hoàn trả vốn vay đúng hạn. Nếu là vay vốn dài hạn không phải trả lãi, thì phải thực hiện tốt các tiêu chuẩn kinh tế - kỹ thuật để được xóa nợ theo thời hạn quy định. Điều khoản hợp đồng này dần được các nhà làm luật bổ sung đầy đủ hơn, trong đó có cả trách nhiệm cụ thể của bên vay nếu vi phạm (Điều 51 Luật các TCTD năm 1997; khoản 3, 4, Điều 94 Luật các TCTD năm 2010).
Trên lý thuyết, việc tuân thủ quy định mục đích sử dụng vốn còn là cơ sở để các TCTD tiến hành thực hiện các hành vi kiểm soát tín dụng (kiểm soát dòng tiền vay có đúng với phương án vay, đạt mục đích như ban đầu TCTD đã đề ra), đánh giá hiệu quả khoản vay, dự liệu rủi ro có thể xảy ra trong tương lai. TCTD không thể xác định khoản vay nhằm mục đích gì, có hiệu quả hay không nếu không có các quy định về mục đích rõ ràng, cụ thể. Thông qua công tác này, khoản vay còn được bảo đảm bằng chính nguồn tín dụng được bên vay sử dụng hiệu quả, có sự hỗ trợ, tư vấn của TCTD, hạn chế phụ thuộc quá nhiều vào tài sản bảo đảm.
Về phương diện quản lý vĩ mô, nhà nước thường chỉ đạo hạn chế cho vay vào các mục đích đầu tư chứng khoán, bất động sản vì lĩnh vực này có tỷ suất sinh lời lớn nhưng tiềm ẩn rủi ro, chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi sự thay đổi của nền kinh tế: i) Đối với lĩnh vực chứng khoán: Các TCTD thường dựa vào giá trị cổ phiếu tại thời điểm giao dịch để xác định giá trị cầm cố, mức vay. Nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam đang phát triển, nhiều biến động rủi ro, có nguy cơ giảm giá trị chứng khoán cầm cố, khi đó khách hàng giảm năng lực trả nợ; ii) Đối với lĩnh vực bất động sản: Lĩnh vực này thường có nhiều khuyến cáo nhất của nhà nước, do lợi nhuận thiếu ổn định; hiệu quả khai thác, sử dụng những tài sản này đòi hỏi bên vay phải có năng lực tổ chức, quản lý nhất định.
Vì vậy, khi cho vay nhằm vào các mục đích này, TCTD phải ghi rõ trong HĐCV mục đích sử dụng vốn, nghĩa vụ tuân thủ các chủ trương của nhà nước về giới hạn cho vay tại thời điểm giải ngân, đồng thời phải thiết lập cơ chế kiểm soát dòng tiền giải ngân phù hợp với từng mục đích vay (với ý nghĩa làm tăng giá trị tài sản hình thành từ vốn vay, khoản vay an toàn hơn). Bên cạnh đó, các TCTD cần thiết lập cơ chế thẩm định giá trị bất động sản, giá trị cổ phiếu, trái phiếu phù hợp với giá thị trường, theo nguyên tắc thẩm định độc lập, xác định hạn mức cấp tín dụng phù hợp với quy chế nội bộ ngân hàng trước khi cho vay, hạn chế thấp nhất tình trạng cho vay vượt giá trị tài sản bảo đảm.
Khác với cho vay các mục đích trên, yêu cầu an toàn được đặt ra khắc khe, khoản vay với mục đích tiêu dùng với bản chất pháp lý là quan hệ dân sự, hướng đến bình đẳng, quyền lợi hợp đồng bên vay. Các quy định của pháp luật về HĐCV tiêu dùng theo Thông tư số 43/2016/TT-NHNN và các quy định liên quan đã có nhiều thay đổi đáng kể trước sự phát triển của thương mại, tín dụng tiêu dùng đầy tiềm năng như các số liệu, dự báo đã đề cập. Những tiến bộ này góp phần nâng cao nhận thức bảo vệ quyền lợi của người vay bằng các quy định pháp luật minh bạch cho vay, bên cạnh nghĩa vụ cung cấp thông tin đối với TCTD như được đề cập (điểm a, mục 3.3.1). Tuy nhiên, quy định vẫn chưa hình thành một cơ chế pháp lý đầy đủ, chặt chẽ để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người vay với tư cách là bên yếu thế.
Tóm lại, mặc dù quy định của pháp luật về mục đích sử dụng vốn tương đối rõ ràng cụ thể như thế, nhưng thực tiễn áp dụng, không ít trường hợp bên vay sử dụng vốn vay không đúng mục đích cam kết, vi phạm hợp đồng vay. Bên cho vay cũng không làm tốt công tác kiểm tra, giám sát nên nhiều trường hợp sai phạm kéo dài, hậu quả xảy ra rất nghiêm trọng.
Vậy, trường hợp các bên vay vi phạm quy định về sử dụng vốn vay đúng mục đích thì phải chịu các biện pháp chế tài như thế nào?
- Chế tài vi phạm hợp đồng đối với bên vay:
Bên vay phải tuân thủ nghĩa vụ sử dụng vốn đúng mục đích đã cam kết. Nếu bên vay vi phạm sẽ phải gánh chịu các biện chế tài được ghi trong HĐCV: chấm dứt cho vay, thu hồi tiền vay trước thời hạn (Điều 21 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN). Bên cạnh đó, các TCTD còn đặt ra các khoản phí phải trả, bồi thường thiệt hại nhằm tăng cường trách nhiệm bên vay. Mặc dù vậy, bên cho vay phải có trách nhiệm chứng minh các khoản tiền thiệt hại này là hậu quả trực tiếp do lỗi của bên vay sử dụng vốn vay không đúng mục đích, nếu không chứng minh được thì không thể yêu cầu bên vay thực hiện nghĩa vụ này.
- Chế tài bằng biện pháp xử lý, truy cứu trách nhiệm hình sự:
Pháp luật khẳng định trách nhiệm của các bên, kể cả trách nhiệm về hình sự nếu sử dụng vốn vay không đúng mục đích (chẳng hạn, bên vay có hành vi gian dối về mục đích sử dụng vốn vay, sử dụng vốn vay trái mục đích để chiếm đoạt tiền vay).
Về yếu tố cấu thành tội phạm, việc sử dụng vốn vay trái mục đích là dấu hiệu rõ ràng nhất của hành vi chiếm đoạt tiền vay. Thông thường những biểu hiện bên ngoài của hành vi này đó là: khách hàng tạo dựng chứng cứ, cung cấp thông tin không đúng sự thật với mục đích duy nhất là có được vốn vay. Nếu không hoàn trả tiền vay, đây là những biểu hiện của ý thức (chủ quan), sai phạm về những gian dối của bên vay như một căn cứ xác định hành vi chiếm đoạt tài sản để các cơ quan tố tụng truy cứu trách nhiệm về hình sự.
Trong thực tiễn cho vay, quy định mục đích sử dụng vốn vay được pháp luật Việt Nam đề cập nhằm xác định hành vi sai phạm, kể cả xử lý về hình sự (nếu sử dụng sai mục đích, làm thất thoát vốn của ngân hàng). Quy định này được luật hóa, tương tự
như pháp luật Trung Quốc (Điều 80 Luật NHTM Trung Quốc quy định: “Người đi vay bằng sự gian trá để được vay coi như là phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo như luật này”136).
Pháp luật Việt Nam không quy định cụ thể hành vi sử dụng vốn vay đúng mục đích phải chịu trách nhiệm hình sự trong luật chuyên ngành ngân hàng. Nhưng trong lĩnh vực hình sự hiện nay, các nhà làm luật đã thiết kế thành điều luật riêng về các tội phạm liên quan đến lĩnh vực ngân hàng (Điều 206 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 ), bao gồm các hành vi sai phạm: cấp tín dụng, vi phạm các hạn chế để bảo đảm an toàn, góp vốn, giới hạn góp vốn mua cổ phần, mua bán tài sản, cung ứng sử dụng chứng từ thanh toán không hợp pháp, làm giả chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán giả.
Đối với trường hợp bên vay vi phạm quy định mục đích sử dụng vốn vay, hành vi này nếu cấu thành tội phạm còn có thể bị xử lý về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” hoặc “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” (Điều 174, 175 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017). Mặt chủ quan của hai tội phạm này thể hiện ở ý thức chiếm đoạt tiền vay trước (đối với hành vi lừa đảo) và sau (đối với hành vi lạm dụng tín nhiệm) khi ký hợp đồng vay. Mặt khách quan của tội phạm, bên vay sử dụng vốn vay không đúng mục đích, gian dối hồ sơ vay vốn, giả mạo tài liệu chứng từ để giải ngân, bỏ trốn sau khi nhận tiền vay,…
Trong thực tiễn áp dụng điều luật, ranh giới của hành vi tội phạm trong lĩnh vực này thường khó xác định vì việc sử dụng vốn vay không đúng mục đích phải gắn liền với ý thức chiếm đoạt tài sản. Không ít trường hợp các cơ quan tố tụng nhầm lẫn, đánh giá sai hành vi phạm tội dẫn đến hình sự hóa quan hệ cho vay (đơn cử, vụ ông Nguyễn Ngọc P kiện đòi bồi thường thiệt hại do truy tố oan sai khi cho vay đã được dư luận nhiều lần phản ánh137).
Tóm lại, quy định sử dụng vốn vay đúng mục đích như hiện nay phù hợp kinh nghiệm pháp luật các nước với ý nghĩa: nâng cao năng lực kiểm soát, bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn vay như phương án vay ban đầu được đề ra. Từ hiệu quả này, năng lực tài chính của bên vay nâng cao, giúp cho các TCTD dễ dàng thu được tiền vay. Đó còn là sự đảm bảo cho công tác quản lý của nhà nước kiểm soát dòng tiền đầu tư vào nền kinh tế. Với những phân tích, minh chứng rằng, pháp luật Việt Nam hiện hành đã kế thừa trong các quy định về sử dụng vốn vay đúng mục đích, phù hợp với chuẩn mực pháp luật, thông lệ cho vay ở các nước trên thế giới.
3.3.2.2. Nghĩa vụ kiểm tra, giám sát sử dụng vốn vay của các tổ chức tín dụng
Bên vay phải có nghĩa vụ tuân theo sự kiểm tra giám sát của bên cho vay. Đây là nghĩa vụ được luật định, cho dù HĐCV có đề cập đến nghĩa vụ này hay không.
136 Xem: Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (1997), Sđd (36), tr. 497
137 Xem: Phi Long/Truyền hình Quốc hội, Giám đốc bị án oan Lương Ngọc Phi được bồi thường kỷ lục gần 23 tỷ http://vov.vn/vu-an/giam-doc-bi-an-oan-luong-ngoc-phi-duoc-boi-thuong-ky-luc-gan-23-ty-421624.vov, truy cập lúc 6:30 ngày 13/6/2017
Nghĩa vụ kiểm tra giám sát sử dụng vốn vay có những khác biệt cơ bản với các hoạt động kiểm tra, giám sát về mặt quản lý nhà nước vì mục đích an toàn, lành mạnh trong hoạt động ngân hàng, được bảo đảm thực hiện bằng các chế tài hành chính. Với ý nghĩa nhằm bảo đảm tính minh bạch, xác định mức độ hiệu quả, chất lượng của hồ sơ vay vốn trong suốt quá trình hợp đồng, công tác kiểm tra giám sát giúp cho các TCTD kịp thời phát hiện những lỗ hổng của quy trình cho vay, những rủi ro, nguy cơ có thể xảy ra để phòng ngừa, khắc phục kịp thời những sai phạm. Đây là tiến trình phức tạp, đòi hỏi những người thực hiện công tác này phải tuân thủ nghiêm túc quy trình kiểm tra giám sát, họ phải có chuyên môn, nghiệp vụ kết hợp sử dụng hợp lý các công cụ thẩm định, kiểm toán, giám định,... Vì trên thực tế, bên vay luôn có ý thức che dấu thông tin sai phạm, không tích cực hợp tác với cán bộ kiểm tra, giám sát tín dụng. Bên cạnh đó, vốn vay là tiền tệ thuộc đối tượng dễ sử dụng, dễ che dấu nên các sai phạm luôn tiềm ẩn, công tác kiểm tra giám sát đòi hỏi TCTD phải có thời gian, nghiệp vụ, tiến trình thực hiện mới đáp ứng yêu cầu, trách nhiệm này.
Về phương diện lịch sử, tại Việt Nam, trong giai đoạn đầu của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, các quy định về nghĩa vụ kiểm tra, giám sát vốn vay thường được pháp luật ngân hàng đề cập đến: Chương 5 của Quyết định số 49/QĐ ngày 16/10/1969 của NHNN về thể lệ cho vay ngắn hạn đối với các công ty vật tư nông nghiệp quy định cụ thể về kiểm tra vốn vay và kỷ luật tín dụng đối với bên vay. Theo Điều 40 của Quyết định này, hàng tháng ngân hàng tiến hành kiểm tra số tiền cho vay, thu nợ trong tháng và dư nợ cuối tháng; việc luân chuyển vật tư, dự trữ hàng hóa, việc sử dụng vốn vay và trả nợ nhằm giúp công ty thực hiện tốt kế hoạch. Bên cạnh đó, Điều 44 của Quyết định còn cho phép ngân hàng đình chỉ cho vay nếu bên vay hoạt động kém, vi phạm chế độ, nguyên tắc tín dụng, thanh toán, quản lý tiền mặt nhiều lần.
Như vậy, xuất phát từ bản chất của quan hệ cho vay phức tạp, nhiều rủi ro, các nhà làm luật ngay khi ban hành các quy định về cho vay đã ý thức tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát. Các quy định này được cụ thể hóa, ngày càng hoàn thiện, gắn với các phương thức giám sát và các biện pháp chế tài nếu vi phạm, cho dù khoản vay đó được thực hiện theo kế hoạch, mệnh lệnh của nhà nước.
Theo quy định hiện nay, tại khoản 3, Điều 94 Luật các TCTD năm 2010; khoản 1, 2, Điều 24 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN, thì TCTD có quyền, nghĩa vụ kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng. Tại khoản 2, Điều 15 Nghị định số 96/2014/NĐ-CP còn quy định chế tài, có mức phạt đến 20.000.000 đồng đối với TCTD nếu vi phạm. Với các quy định chế tài bằng biện pháp xử phạt hành chính nêu trên, pháp luật ngân hàng khẳng định công tác kiểm tra, giám sát còn là nghĩa vụ bắt buộc thực hiện đối với TCTD xuất phát từ chính những lợi ích chung của hoạt động này.
Trên lý thuyết, rủi ro kinh doanh của bên vay cũng có thể bị chuyển hóa thành những rủi ro của hệ thống ngân hàng. Những biến động của nền kinh tế tác động gây ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống kinh doanh, khi đó mọi doanh nghiệp, cá nhân đều có
thể mất khả năng hoàn trả nợ vay do làm ăn thua lỗ, bị phá sản. Điều này đồng nghĩa rằng, bên vay phải ý thức nghĩa vụ của mình, tuân thủ nghiêm túc sự kiểm tra, giám sát của bên cho vay. Bên vay không thể viện dẫn bất cứ lý do gì để trì hoãn thực hiện. Về phía bên cho vay, quy định này không còn đơn thuần là quyền năng hợp đồng, mặc dù trong vấn đề này vẫn còn có những quan điểm khác biệt cho rằng, đặt ra nghĩa vụ đối với TCTD là chưa phù hợp138.
Tác giả luận án có quan điểm này như sau: Pháp luật ngân hàng đã nâng cao trách nhiệm của TCTD trong suốt quá trình cho vay bằng việc thực hiện công tác kiểm tra giám sát, dự phòng, xử lý rủi ro, đồng thời là cơ sở pháp lý để xem xét trách nhiệm dân sự, hình sự nếu nhân viên, cán bộ TCTD được phân công có sai phạm. Với việc luật hóa nghĩa vụ của TCTD cả trong công tác giám sát trả nợ của khách hàng như hiện nay, các nhà làm luật đã khẳng định về mặt ý nghĩa, tăng cường hơn trách nhiệm của các TCTD trong giai đoạn hiện nay nợ xấu, nợ quá hạn (phần lớn là các khoản nợ gốc, lãi phát sinh từ HĐCV) đang là mục tiêu ngành ngân hàng tập trung, quyết liệt để giải quyết (quy định trước đây tại Điều 21 Quy chế cho vay ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN không đề cập đến nghĩa vụ kiểm tra, giám sát trả nợ).
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, trong các HĐCV đều ghi nhận khá cụ thể quyền kiểm tra, giám sát cho vay của TCTD. Chẳng hạn, khoản 12.1 Điều 12 của Hợp đồng cấp tín dụng số 402-200/2013/HĐCTD-NHNA ký ngày 23/7/2013 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần NA (chi nhánh QN) với Công ty cổ phần chế biến ĐV có ghi nhận quyền yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến việc vay vốn, kiểm tra tình hình kinh doanh, sử dụng vốn, tài sản bảo đảm, tình hình thực hiện hợp đồng và các thỏa thuận khác của khách hàng,… Mặc dù vậy, đây là nội dung hạn chế nhất đối với TCTD như các kết luận thanh tra ngành ngân hàng thường đề cập đến. Nhiều sai phạm được vạch rõ của công tác này đã minh chứng cho thấy: Các TCTD chưa đề cao sử dụng các công cụ thẩm định, kiểm định độc lập để nâng cao hiệu quả kiểm tra, giám sát; cũng như chưa thiết kế một quy trình kiểm tra, giám sát, nhận diện những nguy cơ, rủi ro có cơ sở khoa học và hiệu quả.
Dựa vào các tiêu chí đánh giá chất lượng pháp luật như tác giả đã đề cập phân tích, trong đó yêu cầu công tác kiểm tra, giám sát phải kịp thời phát hiện sai phạm và có biện pháp xử lý phù hợp để hạn chế rủi ro thì thực hiện công tác này tại các TCTD vẫn chưa được hiệu quả cao. Kết quả đánh giá chất lượng tín dụng đã thể hiện rõ những hạn chế này như luận án viện dẫn.
Như vậy, nghĩa vụ kiểm tra giám sát được luật hóa, áp dụng cả với bên cho vay và bên vay là bước tiến mới của pháp luật. Vấn đề đặt ra, đó là ý thức tuân thủ pháp luật: Không ít trường hợp các TCTD vẫn còn xem nhẹ, chưa thiết lập quy trình kiểm tra, giám sát chặt chẽ, kể cả khâu xử lý khi phát hiện bên vay có sai phạm, làm gia tăng mất kiểm soát quá trình thực hiện HĐCV, không kiểm soát dòng tiền vay, nguy cơ mất
138 Xem thêm: Bùi Đức Giang (2017), Kiểm tra việc sử dụng vốn vay nên là... quyền của TCTD, Thời báo kinh tế Sài Gòn http://www.thesaigontimes.vn/162201/Kiem-tra-viec-su-dung-von-vay-nen-la-quyen-cua-TCTD.html, truy cập lúc 10:53 ngày 12/3/2018