Quyền Tiếp Cận Tín Dụng Của Khách Hàng Tiềm Năng


ii) Tại Trung Quốc: Pháp luật không cho phép cho vay không có bảo đảm, hoặc có bảo đảm ưu đãi hơn đối với thành viên, lãnh đạo và người quản lý tín dụng, người thân thích cùng một khoản vay tương tự (Điều 40 Luật NHTM Trung Quốc106);

iii) Tại Malaysia: Pháp luật nghiêm cấm cấp tín dụng cho lãnh đạo và nhân viên của TCTD (điểm (a) Điều 60 Luật về các Tổ chức tài chính và Ngân hàng Malaysia năm 1989);

iv) Tại Đức: Pháp luật không cấm cho vay, nhưng lãnh đạo nghiệp vụ của TCTD; sáng lập viên của TCTD; thành viên của cơ quan giám sát hoạt động của TCTD; vợ chồng, con chưa đến tuổi thành niên của người này nếu vay vượt quá

250.000 DM (Mác Đức) thì ngân hàng phải thông báo Cục Thanh tra và Ngân hàng liên bang Đức (Điều 15; khoản 1, Điều 16 Luật về Ngành tín dụng Đức).

Có thể thấy pháp luật của các quốc gia trên thế giới có sự tương đồng trong các quy định cấm cho vay đối với người sở hữu (người góp vốn đầu tư vào ngân hàng), quản lý, điều hành TCTD và người thân thích của những người này (Maylaysia). Nếu quyết định cho vay, các TCTD phải tuân thủ các điều kiện vay nghiêm ngặt hơn đối với khoản vay bình thường của các khách hàng (Hoa Kỳ, Trung Quốc) hoặc đặt ra các giới hạn dựa trên định lượng khoản tiền vay lớn nhất định (Đức).

- Giới hạn về hạn mức vay:

i) Tại Đức: Điều 13-17 Luật về Ngành tín dụng Đức quy định chế độ báo cáo Ngân hàng liên bang Đức cho từng khoản vay lớn (tín dụng vượt quá 15% vốn pháp định) (Điều 13.1), từng khoản tín dụng lớn không vượt quá 50% vốn pháp định của TCTD (Điều 13.4);

ii) Tại Trung Quốc: Pháp luật nước này không cho phép một khách hàng vay vượt quá 10% vốn của TCTD (khoản 4, Điều 39 Luật NHTM Trung Quốc), tỷ lệ này tương tự như quy định tại Ba Lan (khoản 2, Điều 35.1 Luật Ngân hàng Ba Lan);

iii) Tại Hoa Kỳ: Pháp luật quy định khoản vay tối đa cho một người vay là 15%, có thể tăng thêm 10% nhưng tất cả khoản vay phải được bảo đảm bằng tài sản có tính thanh khoản trên thị trường.107

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

Với các tỷ lệ về hạn chế cho vay đối với một số đối tượng nêu trên, có thể thấy, các nhà làm luật trên thế giới có sự tương đồng trong quan điểm áp dụng công cụ định mức bằng việc ấn định cho phép giới hạn tỷ lệ từ 10% đến 15% cho một khách hàng vay. Vượt quá tỷ lệ cho vay này nguy cơ gây rủi ro, mất an toàn cho chính TCTD đó.

Quy định theo pháp luật và thực tiễn thực thi tại Việt Nam:

Pháp luật Việt Nam về hợp đồng cho vay trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng - 11


106 Xem tại: Law of the People's Republic of China on Commercial Banks, http://www.npc.gov.cn/englishnpc/Law/2007-12/12/content_1383716.htm, truy cập lúc 20:00 ngày 18/4/2015 107Arnold & Porte LLP (8/2015), Tlđd (16), tr. 4

Nguồn: https://files.arnoldporter.com/usregulationofbanklending.pdf, truy cập ngày 10/6/2017


Pháp luật ngân hàng dưới thời kinh tế tập trung, bao cấp không quy định cụ thể các chủ thể bị cấm hoặc giới hạn cho vay có điều kiện, xuất phát từ lý do duy nhất: Hoạt động cho vay của các ngân hàng trong giai đoạn này phục vụ mục tiêu kinh tế xã hội chủ nghĩa; Các khoản vay dựa theo chỉ tiêu, kế hoạch kinh tế được phê duyệt, đăng ký của nhà nước, không tập trung cho vay cá nhân hoặc nhóm cá nhân nào.

Trải qua thời gian dài phát triển, các nhà làm luật đã tiếp cận kế thừa những kinh nghiệm, chuẩn mực cho vay, các quy định cấm, hạn chế cho vay trong lĩnh vực ngân hàng được minh định, tiệm cận với quy định của pháp luật các nước như được viện dẫn. Cụ thể trong vấn đề này, pháp luật ngân hàng Việt Nam hiện hành quy định như sau:

i) Cấm cho vay: Áp dụng đối với những người quản lý TCTD là thành viên hội đồng quản trị, thành viên ban kiểm soát, ban tổng giám đốc và các chức danh tương đương; những người thân thích: cha, mẹ, vợ, con của các chủ thể trên (quy định này không áp dụng đối với quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô vốn dĩ hoạt động nhằm tương trợ hộ gia đình, người thu nhập thấp, hay các doanh nghiệp có quy mô nhỏ).

ii) Không được cho vay không bảo đảm hoặc với các điều kiện ưu đãi: Áp dụng đối với tổ chức kiểm toán, kiểm toán viên, thanh tra đang thực hiện kiểm toán, thanh tra tại TCTD; kế toán trưởng của TCTD; cổ đông lớn, cổ đông sáng lập. Tổng mức tín dụng cấp cho đối tượng liệt kê trên không được vượt quá 5% vốn tự có của TCTD.

iii) Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng: Không được vượt quá 15% vốn tự có của NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô (tương tự như pháp luật Hoa Kỳ, Đức); tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng và người có liên quan không được vượt quá 25% vốn tự có của các TCTD. Các TCTD phi ngân hàng tỷ lệ này cao hơn (khoản 1, Điều 126; khoản 1, 2 Điều 127; khoản 1, Điều 128 Luật Các TCTD năm 2010).

Mặc dù quy định tương đối cụ thể trong luật, song thực tiễn áp dụng các quy định trên vẫn còn bộc lộ những bất cập. Lãnh đạo các TCTD thường thành lập các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân độc lập, xin vay vốn từ TCTD do chính mình đang quản lý, điều hành với điều kiện vay dễ dàng, không đạt chuẩn, nới lỏng các biện pháp kiểm tra vốn vay… Hành vi này đe dọa đến sự an toàn của TCTD và cả hệ thống ngân hàng, vi phạm các quy định cấm hoặc giới hạn cho vay. Vì vậy, tăng cường công tác kiểm soát, nhận diện sai phạm, kịp thời phát hiện các chủ thể vay vốn có lợi ích liên quan đến các trường hợp bị cấm hoặc hạn chế cho vay để có các biện pháp xử lý là công việc thường xuyên, bắt buộc đối với cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng.

Như vậy, tùy vào pháp luật mỗi quốc gia, mức độ, năng lực quản lý, kiểm soát tín dụng khác nhau nên các quy định trong vấn đề này cũng khác biệt, không đồng nhất. Nhưng có thể thấy, pháp luật Việt Nam có những quy định tương đồng với pháp luật các nước, đều dựa vào mối quan hệ giữa bên vay và người có quyền quản trị, điều


hành TCTD, có thẩm quyền xét duyệt cho vay (dựa trên quan hệ thân thích hoặc quan hệ phụ thuộc thông qua công việc), giới hạn khoản vay đối với một chủ thể hoặc một nhóm chủ thể, từ đó nhận diện mức độ, nguy cơ rủi ro có thể xảy ra làm căn cứ để ban hành quy định cấm hoặc hạn chế cho vay như viện dẫn.

Trên đây là những ưu điểm của pháp luật ngân hàng Việt Nam trong các giới hạn cho vay. Yếu tố vô tư, khách quan khi cho vay được các nhà làm luật Việt Nam tiếp thu và đề cao trong luật là hoàn toàn phù hợp với bản chất của quan hệ tín dụng (có tính hệ thống, mắc xích cần phân tán rủi ro), phù hợp kinh nghiệm theo pháp luật của các nước. Đó là yêu cầu về một quy trình tín dụng diễn ra thông suốt, đúng quy chế cho vay, đúng pháp luật như các chủ thể vay bình thường khác. Kể cả khi có rủi ro xảy ra, những rủi ro này cũng không gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống tín dụng, gây thiệt hại nghiêm trọng cho các TCTD.

3.1.3. Quyền tiếp cận tín dụng của khách hàng tiềm năng

Thuật ngữ “khách hàng tiềm năng” được luận án tiếp cận đối với chủ thể có quan hệ với TCTD, chưa tham gia ký kết HĐCV, muốn được vay vốn theo chính sách tín dụng đặc thù của nhà nước, hay chính sách tín dụng nội bộ của các TCTD.

Những chủ thể (khách hàng vay) này bao gồm:

- Nhóm khách hàng là tổ chức, cá nhân năng lực tài chính hạn hẹp, khó tiếp cận vốn vay của TCTD:

Nhóm khách hàng này được nhà nước bảo đảm vay vốn theo các điều kiện nới lỏng thông qua các ngân hàng chính sách kể cả các NHTM (chủ yếu là các NHTM do nhà nước bỏ vốn đầu tư, thành lập108) để bảo đảm quyền tiếp cận tín dụng công bằng, chủ động tham gia vào các quan hệ kinh tế.

Trên lý thuyết, quyền tiếp cận tín dụng là quyền cơ bản của con người được tiếp cận vốn tín dụng để phát triển, được nhiều nghiên cứu, pháp luật ở nước ngoài đề cập đến. Luận án đã đề cập đến lý thuyết này, làm nền tảng lý luận cho nghiên cứu về quyền tiếp cận tín dụng đối với những chủ thể có hoàn cảnh tài chính hạn hẹp, nhưng có tiềm năng khi tham gia vào hoạt động kinh tế, dựa trên những phân tích về pháp luật thực định trong và ngoài nước.

Chẳng hạn, tại Hoa Kỳ, quốc gia theo hệ thống thông luật, pháp luật ngân hàng quốc gia này có đề cao quyền tiếp cận vốn của các cá nhân khó tiếp cận được vay vốn. Cụ thể: Luật Cơ hội tín dụng công bằng (Equal Credit Opportunity Act) quy định cấm phân biệt đối xử đối với các thành phần có địa vị khác nhau trong xã hội khi cho vay (12 U.S.C §§ 1691 – 1691f); Luật Tái đầu tư cộng đồng (Community Reinvestment Act) khuyến khích ngân hàng cấp tín dụng cho khu vực có thu nhập thấp, cung ứng tín dụng mua nhà giá rẻ, tài trợ các dịch vụ vì cộng đồng… (12 U.S.C §§ 2901-2906).109


108 Các NHTM do nhà nước bỏ vốn thành lập hiện nay chiếm 51,8% toàn hệ thống. Xem tại: Ủy ban giám sát tài chính quốc gia (2017), Tlđd (71), tr. 13, http://nfsc.gov.vn/sites/default/files/bccp2017m12_final.pdf, truy cập ngày 08/3/2018

109 Arnold & Porte LLP (8/2015), Tlđd (16), tr. 18


Những quy định này được ban hành nhằm tạo điều kiện để các cá nhân khó khăn về tài chính, tổ chức kinh tế quy mô nhỏ được tiếp cận vốn, giải quyết các nhu cầu kinh tế thiết yếu. Trường hợp ngân hàng nào vi phạm sẽ bị chế tài bằng các biện pháp xử phạt hành chính, hoặc hạn chế hoạt động kinh doanh ngân hàng.

Như vậy, quyền tiếp cận tín dụng là khái niệm có nội dung rộng, bao gồm cả những chủ trương, chính sách của ngân hàng, thay vì là một quyền năng hợp đồng. Phạm vi của các quyền này tùy vào từng khả năng, chiến lược, điều kiện của quốc gia, từng TCTD, được thể hiện thông qua quan điểm chỉ đạo của các cơ quan quản lý nhà nước, quy định của pháp luật.

Quy định theo pháp luật Việt Nam:

Rải rác trong các chính sách tín dụng của nhà nước đều đề cập đến những ưu đãi vay vốn vào mục đích dự án nông nghiệp, nông thôn; đánh bắt xa bờ; chính sách nhà ở cho người lao động;… giải quyết nhu cầu vốn theo định hướng phát triển của nền kinh tế. Pháp luật ngân hàng hiện nay còn đặt ra 05 (năm) lĩnh vực ưu tiên phát triển nông nghiệp, nông thôn; kinh doanh hàng xuất khẩu; doanh nghiệp nhỏ và vừa; công nghiệp hỗ trợ; doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao nếu doanh nghiệp có tài chính minh bạch, lành mạnh (khoản 2, Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN) để có chính sách hỗ trợ cho vay. Vận dụng quy định này, các TCTD thường đưa ra gói vay cho các tổ chức, cá nhân được hưởng chính sách này với các ưu đãi về lãi suất so với những khoản vay có mục đích thương mại.

Chẳng hạn, từ tháng 8/2017 Ngân hàng thương mại cổ phần ĐT & PTVN đưa ra gói vay 10.000 tỷ đồng ưu đãi doanh nghiệp vừa và nhỏ, với mức lãi suất thấp hơn 1%/năm so với lãi suất vay thông thường của khách hàng cùng loại.110 Nhưng ưu đãi này về bản chất không chỉ đơn thuần là để khuyến khích đầu tư, mang lại lợi ích bền vững cho quốc gia. Đó còn là cơ hội để các tổ chức, cá nhân được tiếp cận vốn dễ dàng, thuận lợi, đạt khả năng hiệu quả kinh doanh cao hơn khi lựa chọn, quyết định đầu tư, kinh doanh ở những lĩnh vực này (Không chỉ đơn thuần là ưu đãi về lãi suất, các TCTD còn có các chính sách ưu đãi tín dụng và sản phẩm; chính sách chăm sóc khách hàng111).

- Nhóm các khách hàng tiềm năng được hình thành thông qua quá trình TCTD ưu đãi, tìm kiếm nguồn khách hàng cho vay:

Nhóm khách hàng này ký kết HĐCV để vay vốn khi nguồn vốn trong ngân hàng dư thừa, có nguồn huy động vốn với mức lãi suất, chi phí thấp, cần giải ngân để cân bằng nguồn tài chính, tạo nguồn thu thanh toán cho các khoản chi tiêu, hoàn trả tiền gửi theo kế hoạch.


Nguồn: https://files.arnoldporter.com/usregulationofbanklending.pdf, truy cập ngày 10/6/2017

110 Xem: Ngân hàng BIDV (2017), Ưu đãi doanh nghiệp nhỏ và vừa với gói tín dụng 10.000 tỷ, http://www.bidv.com.vn/Tin-tuc-su-kien/Tin-khuyen-mai/UU-D--195;I-DOANH-NGHIEP-NHO-V--192;-

VUA-VOI-G--21.aspx, truy cập lúc 14:03 ngày 05/3/2018

111 Xem: Chính sách của Ngân hàng Viettinbank tại Hội thảo: Giải pháp tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngày 05/10/2017, https://www.vietinbank.vn/vn/tin-tuc/Giai-phap-tin-dung-cho-doanh-nghiep-nho-va-vua- 20171006092247.html, truy cập lúc 9:24 ngày 06/3/2018


Mối quan hệ này thể hiện sự gắn bó mật thiết giữa các bên, khách hàng vay sẵn sàng tham gia tín dụng, nhận vốn vay để giải quyết nhu cầu kinh tế trong trường hợp TCTD có các chính sách, điều kiện ưu đãi riêng. Quan hệ cho vay này được thực hiện thông qua các quy định nội bộ của các TCTD, quyết định của Hội đồng quản trị ngân hàng dựa trên cơ sở các quyền chủ động, quyết định cho vay được nhà nước cho phép thực hiện. Mặc dù vậy, nếu không kiểm soát nguồn vốn chặt chẽ, chính sách tín dụng hợp lý, TCTD phải đối mặt với nhiều rủi ro, mất kiểm soát, lý do: Khách hàng không có khả năng hoàn trả vốn do năng lực hạn chế, hoặc bị chi phối bởi các nhóm lợi ích như khuyến cáo thường thấy của Chính phủ.112

Vì vậy, từ việc phân tích này, luận án đã phân biệt nhóm khách hàng tiềm năng khác với các nhóm lợi ích, những chủ thể bị cấm hoặc hạn chế cho vay. Các nhóm lợi ích thường do các nhà đầu tư của TCTD thành lập, hoặc có quan hệ, lợi ích liên quan với các lãnh đạo TCTD. Các TCTD khi cho vay đối tượng này thông thường họ lược bỏ qua quy trình thủ tục vay phức tạp, lãi suất thiếu minh bạch, chi lãi ngoài hợp đồng, nâng khống giá trị tài sản bảo đảm so với giá trị thực tế để cho vay vượt hạn mức cho phép, lơi lỏng trong công tác kiểm soát sau cho vay nên khoản vay thường không hiệu quả, thậm chí bị mất vốn,…

Có thể thấy hiện tượng này trong các vụ án hình sự được tòa án các cấp xử lý tội phạm: “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các TCTD” gần đây được minh chứng. Các lãnh đạo của TCTD (bị truy cứu trách nhiệm hình sự) xét duyệt cho vay các khách hàng do chính họ thành lập (doanh nghiệp), chi phối toàn bộ khoản vay, gây thiệt hại nghiêm trọng cho các TCTD do mất cân đối tài chính, không thu hồi vốn vay và lãi suất.

Tóm lại, điểm tích cực khi cho vay đối với khách hàng vay tiềm năng, đó chính là lợi ích của cộng đồng, khơi thông nguồn vốn vay, ngân hàng chủ động xây dựng nguồn khách hàng ổn định, lâu dài. Pháp luật ngân hàng Việt Nam đã xây dựng, hình thành các phương thức tiếp cận tín dụng đa dạng, đáp ứng nhu cầu vốn, phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quyền chủ động của các TCTD trong quan hệ, tìm kiếm khách hàng. Song, với những thực tiễn đã nêu, các nghiên cứu trong lý luận và pháp lý cần tiếp tục làm rõ: Tiêu chí phân định khách hàng tiềm năng với các nhóm lợi ích vay vốn; Cụ thể hóa các điều kiện cho vay những khách hàng có ích liên quan đến lãnh đạo tín dụng (ví dụ như: không cho vay tín chấp đối tượng này, tài sản bảo đảm phải tương ứng khoản vay, tài sản bảo đảm có tính thanh khoản cao,...), nhằm minh định rõ hơn mối quan hệ pháp lý giữa TCTD với khách hàng tiềm năng, có giải pháp điều chỉnh bằng pháp luật phù hợp.


112 Xem: Chí Hiếu (2017), Tiền ngân hàng không được ưu ái đại gia. Xem tại: thanhnien.vn/thoi-su/tien-ngan- hang-khong-duoc-uu-ai-dai-gia-856599.html, truy cập lúc 9:19 ngày 26/7/2017


3.2. PHÁP LUẬT VỀ HÌNH THỨC CỦA HỢP ĐỒNG CHO VAY, MỐI QUAN HỆ GIỮA HỢP ĐỒNG CHO VAY VÀ HỢP ĐỒNG BẢO ĐẢM

3.2.1. Quy định về hình thức văn bản của hợp đồng cho vay

Hình thức văn bản, với ý nghĩa là những biểu hiện bên ngoài của giao dịch vay, được pháp luật ngân hàng quy định tương đối cụ thể rõ ràng trong định nghĩa về HĐCV, làm cơ sở cho các bên thực thi. Các quy định hiện nay còn đặt ra các biện pháp chế tài phạt hành chính với mức phạt từ 30.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng, nếu TCTD không tuân thủ quy định này (điểm a, khoản 4, Điều 15 Nghị định số 96/2014/NĐ-CP).

Khác với giao dịch trong lĩnh vực dân sự, hoặc thương mại thông thường, các bên có thể xác lập giao dịch dưới bất kỳ hình thức nào, miễn là có chứng cứ chứng minh (trừ một số giao dịch có đối tượng đặc thù phải qua đăng ký quyền sở hữu tài sản hoặc có yếu tố nước ngoài,... ), làm cơ sở yêu cầu các bên thực thi nghĩa vụ hợp đồng. Trong lĩnh vực ngân hàng, TCTD với tư cách là chủ thể kinh doanh với những đặc thù như được phân tích, các giao dịch bắt buộc phải được xác lập thành văn bản, để thực hiện theo đúng tiến độ, thực hiện công tác quản trị, kiểm soát rủi ro. Vì vậy, hình thức HĐCV phải lập thành văn bản được ghi nhận khá cụ thể trong pháp luật và thực tiễn hợp đồng ở các nước.

Phần lớn các ý kiến được tác giả tiến hành khảo sát, thu thập đều cho rằng: Cần phải thiết lập HĐCV theo mẫu “nhằm bảo đảm thống nhất về hình thức và nội dung của hợp đồng, tránh tình trạng Ngân hàng tùy tiện soạn thảo gây bất lợi cho bên vay113. Mặc dù vậy, bên vay có cả doanh nghiệp có điều kiện soạn thảo hợp đồng, đánh giá hiệu quả hợp đồng nên quy định cứng nhắc hợp đồng theo mẫu, bắt buộc phê duyệt của cơ quan nhà nước, áp dụng cho mọi đối tượng vay là không phù hợp, trái với quy định của pháp luật dân sự về loại hợp đồng vốn dĩ dành cho bên yếu thế này.

Về phương diện lý luận, các TCTD có quy mô lớn, năng lực ở các chi nhánh khác nhau (hoạt động cấp tín dụng chủ yếu tập trung ở các chi nhánh, chỉ những khoản vay lớn mới được sự chấp thuận của lãnh đạo hội sở). Việc ban hành mẫu hợp đồng chung áp dụng cho các đơn vị phụ thuộc một ngân hàng để bảo đảm an toàn là phù hợp với những đặc thù của dạng hợp đồng này.114 Những yêu cầu về hình thức văn bản còn có ý nghĩa đối với TCTD như sau: hạn chế mức thấp nhất hợp đồng bị vô hiệu do vi phạm pháp luật, bảo vệ quyền lợi cho các bên khi giao kết; tránh sai sót khi áp dụng biện pháp bảo đảm; các TCTD tập trung vào nghiệp vụ cho vay, thay vì phải đi sâu tìm hiểu kỹ thuật soạn thảo hợp đồng, làm mất đi những cơ hội kinh doanh. Do vậy, chỉ có hình thức văn bản được các bên thỏa thuận chi tiết là cơ sơ pháp lý duy nhất để bảo đảm cho quyền và nghĩa vụ của các bên thực hiện đúng.



113 Xem thêm: Phụ lục 1 – Khảo sát về HĐCV

114 Xem: Mẫu hợp đồng cho vay của TCTD (Phụ lục 2)


Về phương diện quan hệ hợp đồng, các bên hoàn toàn có thể đàm phán sửa đổi hợp đồng cho phù hợp với nhu cầu thực tiễn, bảo đảm quyền tự do ý chí, không bị ai ép buộc. Trên các HĐCV do TCTD phát hành thông thường đều có ghi: “Do ngân hàng và bên vay cùng lập115 nhưng thực tế với đặc thù trên, khách hàng không tránh khỏi bị các TCTD “dẫn dắt” khi ký kết những bản HĐCV được soạn thảo sẵn. Hậu quả là, các tòa án thường dựa vào những thỏa thuận ghi trong HĐCV để tuyên bố những phán quyết có lợi cho các TCTD mà không biết rằng đó là những thỏa thuận trái pháp luật, gây thiệt hại đáng kể cho bên vay.

Đối với quan hệ cho vay tiêu dùng, quy định về hình thức của dạng hợp đồng này phải được xây dựng dựa trên cơ chế pháp lý phù hợp (dưới hình thức văn bản, điều khoản chung, hợp đồng theo mẫu) để bảo đảm quyền lợi bình đẳng tối thiểu của bên vay tiêu dùng. Quyết định số 35/2015/QĐ-TTg ngày 20/8/2015 của Thủ tướng Chính phủ tại Điều 2 bổ sung danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, trong đó có hoạt động vay vốn cá nhân nhằm mục đích tiêu dùng. Quy định này đã khẳng định về bản chất của hợp đồng này nhằm cung ứng các dịch vụ thiết yếu, làm cơ sở hoàn thiện cho các quy định về hợp đồng cho vay tiêu dùng mẫu về sau, cụ thể hơn như hiện nay.

Tóm lại, sự tồn tại của HĐCV bằng văn bản là nhân tố tất yếu khách quan, xuất phát từ yêu cầu của an toàn cho vay đòi hỏi cần có hình thức pháp lý rõ ràng, cụ thể nhất thể hiện đầy đủ ý chí, quyền lợi bình đẳng hợp đồng giữa các bên. Thông tư số 39/2016/TT-NHNN tiếp tục kế thừa những ưu điểm trong các quy định của pháp luật trước đây, duy trì quy định hình thức của HĐCV phải được lập thành văn bản là phù hợp với đặc thù của quan hệ tín dụng, đáp ứng các nhu cầu cần thiết của quan hệ hợp đồng như đã được luận án đề cập, phân tích.

3.2.2. Mối quan hệ pháp lý giữa hợp đồng cho vay và hợp đồng bảo

đảm

Pháp luật Việt Nam trước đây cũng như hiện nay đều quy định các biện pháp

bảo đảm tài sản, phù hợp với quy tắc an toàn cho vay. Song, biện pháp này được thực hiện dựa trên nhiều yếu tố, trong đó có xét đến phạm vi, hiệu quả của khoản tiền vay. Đồng nghĩa rằng, bảo đảm tiền vay là biện pháp thu nợ dự phòng khi việc thu hồi vốn của bên vay không thực hiện được, như các luận điểm trong khoa học ngân hàng thường đề cập.116

3.2.2.1. Các biện pháp bảo đảm tiền vay trong lĩnh vực ngân hàng

Các biện pháp bảo đảm thường được TCTD phân chia dựa trên đặc điểm đối tượng tài sản của hợp đồng bảo đảm, theo 02 (hai) hình thức sau:

- Bảo đảm tiền vay bằng tín chấp:


115 Xem: Hợp đồng tín dụng số 6140-LAV-201100752 ngày 11/2/2011 ký giữa Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn VN – Chi nhánh HM với Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Cao su TC

116 Xem HongKong bank (bản song ngữ, 2004), The ABC to Credit, Nxb. Khoa học xã hội, tr. 51-52


Quy định về cho vay tín chấp được luật hóa cả trong lĩnh vực ngân hàng, nhưng lại bỏ ngỏ cơ chế thực hiện, bao hàm cả trách nhiệm pháp lý phát sinh là có thiếu sót. Pháp luật giao cho các TCTD tự tổ chức thực hiện như hiện nay, đẩy rủi ro có thể xảy ra đối với các cá nhân quyết định cho vay có bảo đảm bằng hình thức này.

Tác giả tiến hành khảo sát lấy ý kiến và nhận được nhiều đồng tình,117 với ý nghĩa khi cho vay tín chấp sẽ tạo thuận lợi cho người vay không quá lệ thuộc vào tài sản bảo đảm. Song, rủi ro khi cho vay theo dạng bảo đảm này là không thể tránh khỏi, nếu khách hàng vay bị mất vốn vì những lý do khách quan (ví dụ: do thiên tai, địch họa, do khách hàng bị vi phạm hợp đồng thương mại, đầu tư có tài trợ vốn vay,…). Vì vậy với những hạn chế này, theo tác giả, pháp luật ngân hàng cần phải thiết lập cơ chế pháp lý về cho vay tín chấp, thay vì để TCTD tự tổ chức thực hiện sẽ gặp nhiều khó khăn, rủi ro. Trong cơ chế này, các nhà làm luật cần xác định những trường hợp (tiêu chí) ngân hàng được phép cho vay tín chấp; xử lý vi phạm hợp đồng; trách nhiệm TCTD, cá nhân nếu để xảy ra tình trạng mất vốn, tránh tâm lý lo ngại khi cho vay.

- Bảo đảm tiền vay bằng tài sản:

Hình thức bảo đảm tiền vay bằng tài sản được vận dụng phổ biến tại nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới (Điều 36, Luật NHTM Trung Quốc; Điều 30.1, Luật Ngân hàng Ba Lan).

Các TCTD thường phân loại tài sản bảo đảm thành động sản và bất động sản để hiện quy trình, thủ tục giao dịch phù hợp: i) Đối với bất động sản, những tài sản được nhà nước cho phép giao dịch, thuộc quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp của bên bảo đảm (ví dụ: nhà đất, công trình, nhà xưởng, dự án đầu tư…). Đây là những tài sản dễ quản lý, dễ định giá khi cho vay nhưng cũng liên tục biến động giá, khó khăn khi xử lý (bán, chuyển nhượng); ii) Đối với động sản, những tài sản này khó quản lý, dễ bị thất thoát (do dễ chuyển nhượng trên thị trường, một số tài sản không bắt buộc phải đăng ký). Trường hợp tài sản bảo đảm là quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng, tài sản hình thành tương lai, thủ tục, xử lý đối với những tài sản dạng này khá phức tạp, nhiều rủi ro do những thay đổi “trạng thái” tài sản trong quá trình bảo đảm, chẳng hạn khi các quyền tài sản chấm dứt do hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng hoặc tài sản hình thành tương lai đã hình thành trên thực tế.

BLDS năm 2015 bổ sung thêm hai biện pháp bảo đảm là “cầm giữ tài sản” và “bảo lưu quyền sở hữu” (Điều 292). Các biện pháp bảo đảm này nhận được đánh giá tích cực, đó là “phù hợp với tính chất bảo đảm nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ”,118 tác động mạnh mẽ đến bảo đảm nghĩa vụ hợp đồng dân sự, kinh tế. Song việc áp dụng biện pháp “bảo lưu quyền sở hữu” chỉ phù hợp cho các giao dịch mua bán tài sản để



117 Kết quả khảo sát có 76/110 ý kiến đồng tình, chiếm tỷ lệ 69%. Xem thêm: Phụ lục 01 – Khảo sát về HĐCV118 Xem thêm: Nguyễn Hải An (2017), Các quy định mới về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong Bộ luật dân sự năm 2015 và tác động đến lợi ích của các doanh nghiệp, Tạp chí Khoa học pháp lý số 02 (105) 2017, tr. 60-68

Xem tất cả 232 trang.

Ngày đăng: 09/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí