+ Đối với trường hợp bên vay là cá nhân chết:88
Dựa trên các quy định của pháp luật về thừa kế trong luật dân sự, những người kế thừa tài sản của bên vay có thể thỏa thuận với TCTD về việc giải quyết những hệ quả phát sinh từ hợp đồng vay. Trường hợp người kế thừa (của người vay) có nhu cầu tiếp tục vay vốn, có đầy đủ tư cách pháp lý, nhận được sự tín nhiệm và đáp ứng đầy đủ các điều kiện trả nợ khi đó, các bên cũng phải ký kết một bản HĐCV mới để ràng buộc trách nhiệm lẫn nhau theo nhu cầu tín dụng thực tế tại thời điểm đó.
Sự kiện này (bên vay là cá nhân bị chết) như một căn cứ để bên cho vay chấm dứt thực hiện hợp đồng vay như thực tế hợp đồng có viện dẫn (Ví dụ: Hợp đồng tín dụng số C0110073-NHKD ký ngày 28/1/2011 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần TV (Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh) với ông Nguyễn Lưu H, tại Điều 6, có ghi căn cứ để thu hồi nợ trước hạn như sau: “c) Bên vay bị chết hoặc bị tòa án tuyên bố là đã chết; bị tòa án tuyên bố mất tích,…”), là phù hợp với các quy định của pháp luật về chấm dứt hợp đồng xuất phát từ các nguyên tắc an toàn trong hoạt động cho vay.89
Trên lý thuyết là thế, song công tác xử lý những hệ quả của hợp đồng khi bên vay là cá nhân chết (kể cả khi bị tuyên bố mất tích) gặp không ít khó khăn đối với ngân hàng và những người làm công tác xét xử (khi vụ việc được đưa ra tòa án giải quyết). Nguyên do là những người thừa kế, người có quyền lợi liên quan không hợp tác, thậm chí từ chối kế thừa tài sản, từ chối tiếp nhận hệ quả của hợp đồng. Pháp luật tố tụng dân sự cũng chưa có giải pháp cụ thể khơi thông, giải quyết các quyền lợi của ngân hàng, theo một cơ chế chủ động, đặc thù.
- Hỏa hoạn, bão lụt, thiên tai, địch họa (sự biến do tự nhiên) tác động đến việc thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng:
Bên cho vay ký kết HĐCV có mục đích kinh doanh, sinh lời. Các quy định của pháp luật hiện nay không ghi nhận những nguyên nhân bất khả kháng, như một lý do chính đáng để bên vay trì hoãn thực hiện nghĩa vụ hoàn trả tiền vay. Nhưng trong một số trường hợp cá biệt, pháp luật vẫn xem đây là những điều kiện (bất khả kháng) để hỗ trợ bên vay vượt qua khó khăn, thường thấy trong các khoản cho vay đối tượng chính sách (được sự quan tâm, hỗ trợ của nhà nước). Đối với các khoản vay nhằm sinh lợi, để được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, các bên phải tuân thủ những điều kiện khắt khe, phức tạp hơn như đã được luận án trình bày.90
Tóm lại, chính yêu cầu cho vay phải tuân thủ nguyên tắc an toàn, nguyên tắc giảm thiểu rủi ro, các nhà làm luật đã đặt ra các quy định về trách nhiệm của bên cho
88 Việc giải quyết hậu quả pháp lý gắn liền với các quy định của pháp luật doanh nghiệp. Khoản 1 Điều 201 Luật Doanh nghiệp năm 2014, doanh nghiệp sẽ bị giải thể trong trường hợp: “c) Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật này trong thời hạn 06 tháng liên tục mà không làm thủ tục chuyển đổi loại hình doanh nghiệp”
Có thể bạn quan tâm!
- Các Nguyên Tắc Pháp Lý Cơ Bản Của Hợp Đồng Trong Quan Hệ Hợp Đồng Cho Vay
- Điều Chỉnh Bằng Pháp Luật Quan Hệ Hợp Đồng Cho Vay Trong Lĩnh Vực Tín Dụng Ngân Hàng
- Các Yếu Tố Phát Sinh, Thay Đổi Hoặc Chấm Dứt Quan Hệ Pháp Luật Về Hợp Đồng Cho Vay
- Giao Kết, Thực Hiện Và Giải Quyết Tranh Chấp Hợp Đồng Cho Vay
- Tiêu Chí Đánh Giá Hiệu Quả Áp Dụng Pháp Luật Hợp Đồng Cho Vay
- Quyền Tiếp Cận Tín Dụng Của Khách Hàng Tiềm Năng
Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.
89 Theo tác giả cần phân biệt giữa nguyên tắc “an toàn” và “rủi ro” trong quan hệ HĐCV. Nếu như “an toàn” là nguyên tắc bắt buộc các bên tuân thủ nhằm bảo vệ khách thể là sự vận hành bình thường của hệ thống tiền tệ, ngân hàng thì “rủi ro” là nguy cơ có thể xảy ra hoặc không xảy ra, chỉ ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế, có thể khắc phục, hạn chế được nên biện pháp này thường linh hoạt hơn, do các TCTD quyết định thực hiện tùy thuộc vào năng lực kiểm soát của từng TCTD
90 Xem: Mục 3.3.4.1. Cơ cấu lại thời hạn trả nợ
vay bắt buộc phải “xét duyệt tín dụng trước khi cho vay”, hay tuân thủ các nghĩa vụ “hoàn trả đầy đủ tiền vay và lãi suất”. Nguyên tắc này làm hình thành mối quan hệ pháp lý tương tác giữa các bên. Trong đó, quan hệ phát sinh ở giai đoạn tiền hợp đồng cần được luật hóa nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm tuân thủ cam kết, bảo đảm quyền tiếp cận vốn vay.
2.2.2.2. Nội dung của quan hệ pháp luật về hợp đồng cho vay
a) Chủ thể của quan hệ pháp luật về hợp đồng cho vay
Các bên tham gia quan hệ pháp luật HĐCV, bao gồm: bên cho vay (các tổ chức tín dụng) và bên vay (tổ chức, cá nhân).
- Bên cho vay:
Đó là các TCTD được thành lập hợp pháp, có vốn điều lệ; người đại diện theo pháp luật phải có năng lực, am hiểu về lĩnh vực ngân hàng nhằm chuẩn hóa năng lực quản trị, điều hành. Đây cũng là cơ sở để các cơ quan tài phán xác định năng lực bên cho vay, đánh giá hiệu lực của HĐCV được ký kết. Các TCTD bao gồm các ngân hàng và tổ chức phi ngân hàng:
+ Ngân hàng thương mại: Hoạt động mô hình ngân hàng này có quy mô lớn, cung cấp đa dạng các dịch vụ cấp tín dụng. Trong đó, cho vay vẫn là nghiệp vụ chủ yếu với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Do chiếm tỷ trọng giao dịch cao trong hệ thống ngân hàng, có tác động, ảnh hưởng mang tính hệ thống nên thủ tục cho vay của các ngân hàng này thường được tiến hành chặt chẽ, theo một quy trình tín dụng bắt buộc phức tạp. Với bản chất thương mại, các NHTM phát triển mạnh mẽ theo mô hình doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ đặc thù, được nhà nước bảo đảm tự chủ ký kết hợp đồng, tự lựa chọn khách hàng, tự thỏa thuận lãi suất,… đồng thời chịu trách nhiệm về mọi hoạt động, kể cả bị phá sản như các doanh nghiệp khác nếu bị mất thanh khoản.
+ Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: Đây là đơn vị phụ thuộc của ngân hàng nước ngoài, không có tư cách pháp nhân, được ngân hàng nước ngoài bảo đảm chịu trách nhiệm về mọi nghĩa vụ, cam kết hoạt động của chi nhánh tại Việt Nam. Hoạt động của các ngân hàng này được nhà nước bảo đảm đầu tư, bảo đảm môi trường kinh doanh, được phép tiến hành các giao dịch vay bình đẳng như các TCTD trong nước.
+ Ngân hàng hợp tác xã: Loại hình ngân hàng này hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, mục đích chủ yếu là nhằm tương trợ giúp đỡ giữa các thành viên. Các khoản vay của đơn vị ngân hàng này thông thường có giá trị thấp, thủ tục đơn giản.
+ Tổ chức tài chính vi mô: Cấp tín dụng bằng đồng Việt Nam dưới hình thức cho vay đối với người nghèo trên địa bàn hoặc khu vực liền kề, có thể được bảo đảm bằng tiết kiệm bắt buộc, bảo lãnh của khách hàng tiết kiệm và vay vốn. Pháp luật ngân hàng có quy định cấm, hạn chế cho vay đối với người có lợi ích liên quan, duy trì tỷ lệ tổng dư nợ các khoản cấp tín dụng cho các đối tượng vay trong tổng dư nợ cấp tín dụng, không thấp hơn tỷ lệ do NHNN quy định. Lãi suất cho vay của tổ chức tài chính vi mô thường cao để bù đắp những chi phí, tổn thất.
+ Quỹ tín dụng nhân dân: Hoạt động theo mô hình hợp tác xã. Hình thức tín dụng này phát huy hiệu quả cho vay, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, nơi người dân chưa có thói quen, điều kiện tiếp cận các ngân hàng. TCTD loại hình này có quy mô nhỏ, không tác động, ảnh hưởng lớn đến hệ thống ngân hàng.
+ Công ty tài chính: Được phép cho vay trả góp và tiêu dùng. Hoạt động của các công ty tài chính ngày càng phát triển, xây dựng mối quan hệ liên kết với các doanh nghiệp thương mại, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng của các cá nhân. Song, do chi phí cao, nhiều rủi ro nên các công ty tài chính thường đặt ra nhiều quy định ràng buộc vượt quá khả năng đối với bên vay: lãi suất cao, cách thức đòi nợ thiếu minh bạch chuẩn mực gây tâm lý chèn ép, bất bình đẳng về quyền lợi hợp đồng.
+ Công ty cho thuê tài chính: Cho thuê tài chính hoạt động tín dụng trung hạn, dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản (tài sản này có thể là máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển, các động sản khác...). Công ty cho thuê tài chính chỉ cho vay bổ sung vốn lưu động đối với bên thuê tài chính.
- Bên vay:
Mỗi khách hàng có những đặc thù riêng về điều kiện hình thành, nhu cầu vốn nên tư cách pháp lý của các chủ thể này cũng có sự khác biệt. Các cơ quan quản lý nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hoạt động bằng nguồn tài chính do ngân sách nhà nước cấp nên không tham gia quan hệ vay, không thể là chủ thể của HĐCV.
Nhìn chung pháp luật dân sự, kinh tế phân chia đối tượng bên vay dựa trên năng lực pháp luật, năng lực hành vi, phù hợp với từng điều kiện, từng lĩnh vực ngành nghề.
+ Đối với tổ chức (doanh nghiệp): Những chủ thể này có tư cách pháp nhân, bao gồm các loại hình doanh nghiệp được thành lập hợp pháp, tham gia quan hệ HĐCV do người đại diện (theo pháp luật hoặc theo ủy quyền) thực hiện, có năng lực đầy đủ, chấp hành đúng quy định về hình thức và nội dung ủy quyền (Điều 562 -569 BLDS năm 2015).
Hợp đồng ủy quyền do các bên thỏa thuận, phải được lập thành văn bản, thể hiện đầy đủ ý chí của bên ủy quyền. Đối với trường hợp ủy quyền đơn phương do một bên thực hiện, về nguyên tắc phải được sự chấp thuận của bên nhận ủy quyền (thụ ủy), khi đó mới phát sinh giá trị hiệu lực. Hợp đồng ủy quyền phải ghi rõ các nội dung cơ bản: bên nhận ủy quyền, bên ủy quyền, phạm vi, thời hạn ủy quyền và các quyền, nghĩa vụ khác (nếu có).
+ Đối với cá nhân: Các cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, năng lực này dựa theo độ tuổi được pháp luật cho phép giao dịch, đồng thời tự chịu trách nhiệm hoàn trả các khoản nợ do mình xác lập, thực hiện.
Tùy vào từng đối tượng vay, các nghiệp vụ cho vay cũng khác biệt. Theo lẽ thông thường, cho vay doanh nghiệp đòi hỏi thủ tục phải chặt chẽ hơn do vốn vay thường lớn, gắn liền với hiệu quả của dự án đầu tư, kinh doanh, thời hạn vay kéo dài, nhiều rủi ro khách quan. Đối với cho vay cá nhân (không nhằm mục đích kinh doanh),
TCTD cần phân biệt mục đích sử dụng khoản vay nhằm phục vụ đời sống hoặc tiêu dùng, nên không cần thiết phải cung cấp các tài liệu, thông tin về hiệu quả sử dụng vốn như cho vay doanh nghiệp.
Năng lực pháp luật đối với chủ thể bên vay, ngoài các quy định trong pháp luật dân sự, doanh nghiệp, những chủ thể này còn phải đáp ứng các điều kiện vay vốn được pháp luật chuyên ngành ngân hàng quy định. Trường hợp bên vay không đáp ứng các điều kiện này, bên cho vay được quyền từ chối cho vay.
Năng lực chủ thể gắn liền với các điều kiện cho vay theo quy định pháp luật:
Tư cách chủ thể gắn với điều kiện vay vốn, đó là các nhu cầu vay vốn để sử dụng vào mục đích hợp pháp, có phương án sử dụng vốn khả thi, khả năng tài chính để trả nợ. Đối với vốn vay ưu đãi theo chủ trương chính sách của nhà nước, bên vay còn phải có tài chính minh bạch, lành mạnh để được hưởng các lãi suất cho vay tối đa theo các tiêu chí do TCTD đặt ra. Ngoài việc cấm cho vay các nhu cầu vay vốn trái pháp luật, pháp luật hiện hành còn khẳng định những nhu cầu vốn không được cho vay để trả nợ tại các TCTD nhằm mục đích đảo nợ, che dấu nợ (khoản 5, 6 Điều 8 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN), nguy cơ mất an toàn vay.
Trong thực tiễn, các TCTD thường đưa ra một số điều kiện chi tiết phù hợp năng lực, điều kiện tài chính của TCTD mình. Chẳng hạn, tài sản bảo đảm phải có giá trị thanh khoản (dễ mua bán, chuyển nhượng trên thị trường, ít bị biến động giá); không có những khoản nợ khó đòi trước đó (bị một ngân hàng khác kiện đòi nợ); về khả năng tài chính trả nợ, bên vay phải có phương án khắc phục nếu kinh doanh không đạt hiệu quả.
Với đặc điểm đa dạng khách hàng đi vay, công tác kiểm tra tư cách pháp lý của bên đi vay, hồ sơ vay vốn phải đáp ứng các tiêu chí đặt ra, là yêu cầu tiên quyết trước khi ký kết HĐCV, bảo đảm về lâu dài uy tín của khách hàng thông qua ý thức thực thi hợp đồng, tuân thủ nghĩa vụ trả nợ.
b) Khách thể quan hệ pháp luật về hợp đồng cho vay
Trong quan hệ pháp luật về HĐCV, khách thể bao gồm: lợi ích vật chất phát sinh từ việc cho vay và nhận tiền vay.
- Về phía bên cho vay: Với đặc điểm của một pháp nhân kinh tế, hoạt động kinh doanh nhằm mục đích lợi nhuận, song TCTD không phải đánh đổi tất cả các lợi ích vật chất, mà phải gầy dựng uy tín, mang lại tiện ích cho khách hàng trong suốt quá trình hoạt động. Khách thể trong trường hợp này chính là lợi ích vật chất hoặc phi vật chất. Để đạt được các mục đích này, TCTD thường xuyên mở rộng kinh doanh, đa dạng và nâng cao chất lượng dịch vụ tín dụng trước yêu cầu cạnh tranh khốc liệt giữa các TCTD trong và ngoài nước.
- Về phía bên vay: Đó là nhu cầu vay vốn phục vụ cho việc đi học, du lịch, mua sắm hoặc nhằm mục đích kinh doanh. Những lợi ích, nhu cầu này, về nguyên tắc cũng phải hợp pháp. Khó có thể chấp nhận doanh nghiệp vay vốn mua hàng hóa bị nhà nước cấm, tham gia vào lĩnh vực cấm kinh doanh, hoặc sử dụng tiền vay vào các mục đích
trái pháp luật. Khách thể của quan hệ pháp luật HĐCV gắn liền với đặc điểm của hợp đồng vay. Dựa vào đặc điểm chủ thể, mục đích của HĐCV, pháp luật ngân hàng phân chia thành các nhóm quan hệ xã hội có cùng đặc điểm lợi ích để ban hành các quy định điều chỉnh cho phù hợp.
Khách thể quan hệ HĐCV cũng có thể là lợi ích, an toàn xã hội được pháp luật bảo vệ. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình phải hướng đến mục tiêu kiểm soát an toàn vay, giải quyết chính sách phát triển hệ thống ngân hàng, ban hành các quy định về khuyến khích, giới hạn cho vay; thực hiện quyền kiểm tra, giám sát nhà nước thông qua các công cụ quản lý kinh tế, pháp lý. Nhìn nhận sâu xa hơn, lợi ích của các khách thể này chính là lợi ích của cộng đồng xã hội, uy tín của TCTD cần được nhà nước bảo vệ.
c) Quyền, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ pháp luật về hợp đồng cho vay
Quyền và nghĩa vụ pháp lý, là cách xử sự mà pháp luật cho phép các chủ thể hợp đồng được tiến hành hoặc bắt buộc thực hiện, được phát sinh do luật định hoặc do các bên tự thỏa thuận. Trong quan hệ HĐCV, quyền lợi của chủ thể này gắn liền với nghĩa vụ của chủ thể bên kia của hợp đồng song, với bản chất là giao dịch dân sự, thỏa thuận của các bên phải được đánh giá dựa trên nguyên tắc không trái pháp luật. Việc đối chiếu, phân định phạm vi thỏa thuận này với các quy định của pháp luật là căn cứ để xác định các quyền và nghĩa vụ hợp pháp, đánh giá mức độ tuân thủ nghiêm túc pháp luật đối với các chủ thể hợp đồng.
- Về quyền và nghĩa vụ của bên cho vay:
+ Quyền yêu cầu bên vay cung cấp thông tin: Thông tin do bên vay cung cấp có phạm vi rộng, không chỉ dừng lại ở những thông tin liên quan đến chủ thể vay, quá trình vay, mục đích sử dụng tiền vay… Đây còn là sự đảm bảo tính trung thực, đúng đắn của các tài liệu, chứng từ mà bên vay cung cấp cho bên cho vay, ngay từ giai đoạn xét duyệt cho vay.
Quyền yêu cầu cung cấp thông tin tín dụng là quyền tín dụng cơ bản, được luật hóa. Dựa vào các thông tin, tài liệu này, bên cho vay biết được năng lực bên vay tại các thời điểm của hợp đồng để kịp thời có các biện pháp nghiệp vụ xử lý phù hợp. Khác với thông tin về đời tư hay bí mật kinh doanh, thông tin tín dụng chỉ được cung cấp để phục vụ cho các mục đích của hợp đồng vay. Nếu bên cho vay yêu cầu cung cấp thông tin không hợp pháp, không liên quan đến các quyền lợi hợp đồng, bên vay có quyền từ chối, không thực hiện.
+ Quyền yêu cầu bên vay hoàn trả nợ gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn: TCTD cho vay nên có quyền yêu cầu bên vay hoàn trả hết nợ gốc, lãi đầy đủ, đúng thời hạn. Việc ấn định thời hạn trả nợ giúp cho TCTD có thể “xoay vòng” vốn vay (kịp thời đưa vốn vào kinh doanh, tiếp tục cho vay khách hàng mới để sinh lợi) hoặc thực hiện các kế hoạch chi trả tiền gửi và các chi phí thường xuyên của TCTD. Đây cũng là căn cứ xác định thời điểm hoàn thành hoặc vi phạm HĐCV. Qua đó, TCTD áp dụng các biện pháp quản trị rủi ro, tăng cường công tác kiểm soát để bảo đảm thực thi các quyền này.
Về nguyên tắc chung, quyền yêu cầu hoàn trả nợ gốc và lãi chỉ được thực hiện khi bên cho vay giải ngân. Đây là quyền năng rộng, gắn liền với ý thức, thái độ hành động của bên vay, được nhà nước bảo đảm thực hiện trong luật (bằng các quy định: cho phép TCTD được quyền chấm dứt cho vay, quyền chuyển nợ quá hạn, quyền xử lý tài sản bảo đảm nếu bên vay vi phạm).
+ Quyền gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ: Đây là quyền chủ động, phụ thuộc vào năng lực của bên cho vay và khả năng của bên vay sau khi được gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ. Mặc dù, trong các HĐCV thường có đề cập nhưng thực tế, các quyền này không ràng buộc trách nhiệm đối với bên cho vay. Vì vậy, quyết định gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ phụ thuộc vào điều kiện tài chính, phương án hiệu quả do bên vay thiết lập tại thời điểm TCTD quyết định cho vay.
+ Quyền thay đổi biện pháp bảo đảm tiền vay: TCTD được lựa chọn các biện pháp bảo đảm khi cho vay, được quyền thay đổi biện pháp bảo đảm. Để thực thi hiệu quả, TCTD phải xây dựng quy định nội bộ, ghi vào HĐCV những điều khoản này để ràng buộc đối với bên vay, dựa trên nguyên tắc: TCTD tự quyết định, tự chịu trách nhiệm về nghĩa vụ hoàn trả tiền vay của khách hàng. Thay đổi biện pháp bảo đảm tiền vay cũng phải có sự đồng ý của bên vay, khi đó các bên vẫn phải tiến hành trình tự thủ tục pháp lý đầy đủ (định giá, công chứng hợp đồng, đăng ký giao dịch bảo đảm) để giao dịch đó có hiệu lực pháp luật.
+ Quyền chấm dứt cho vay và thu hồi vốn vay trong trường hợp bên vay vi phạm các nghĩa vụ hợp đồng: TCTD được quyền tạm dừng cho vay, nếu bên vay vi phạm các nội dung trong HĐCV. Đây là quyền năng được phát sinh sau khi TCTD giải ngân. Việc tạm dừng cho vay thông thường kèm theo đó TCTD sẽ đưa ra các biện pháp, yêu cầu bên vay khắc phục trong thời hạn hợp lý. Đối với hành vi chậm trả lãi, TCTD áp dụng mức phạt vi phạm, trường hợp khách hàng vẫn tiếp tục vi phạm, không đệ trình các biện pháp khắc phục hiệu quả, TCTD được quyền chấm dứt cho vay.
+ Quyền cưỡng chế thu hồi nợ (trích từ tài khoản của bên vay để thu hồi nợ, quyền xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ theo quy trình xử lý nợ có bảo đảm): Bên vay không thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền vay, lãi suất, phí… mặc nhiên, các khoản tiền này trở thành nợ của TCTD. Với tư cách chủ nợ, TCTD thực hiện quyền đòi nợ bằng việc xử lý tài sản của bên vay: cấn trừ tiền trong tài khoản (cầm cố sổ tiết kiệm), phát mãi tài sản bảo đảm. Đối với tài sản bảo đảm là bất động sản, thông thường việc xử lý những tài sản này phức tạp hơn. Các TCTD phải tuân thủ thỏa thuận trong HĐCV, đồng thời cần được pháp luật trao quyền chủ động xử lý để thu hồi, cấn trừ nợ.
+ Quyền được bán nợ, chuyển nhượng HĐCV mà không cần sự đồng ý của bên vay: Quyền này của TCTD phải gắn liền với các điều kiện cụ thể được pháp luật đặt ra, dựa trên biên độ, tỷ lệ nhất định cho phép thực hiện trên nguyên tắc, không được xâm hại đến quyền lợi của bên vay. Bên cho vay cũng phải tuân thủ các điều kiện khắt khe do pháp luật quy định, nên không hưởng nhiều quyền lợi trực tiếp từ những quyền này vì vẫn phải thực hiện trách nhiệm giám sát, đòi nợ (do bên mua nợ ủy quyền thực
hiện), trích lập dự phòng rủi ro, do vậy áp lực xử lý nợ vẫn hiện hữu cho dù khoản nợ đã được bán trước đó.
+ Nghĩa vụ cho vay đúng đối tượng vay: Việc cho vay đúng đối tượng nhằm bảo đảm hiệu quả của hợp đồng khi ký kết, giảm thiểu rủi ro. Theo đó, đối tượng vay (những tổ chức, cá nhân) phải có năng lực pháp luật, năng lực hành vi, không vi phạm vào những trường hợp bị cấm, hạn chế cho vay; nhu cầu sử dụng vốn vay phải hợp pháp; có khả năng hoàn trả nợ. Nếu TCTD cho vay không đúng quy định dẫn đến mất vốn, bên cho vay có thể bị truy cứu trách nhiệm dân sự hoặc hình sự.
+ Nghĩa vụ kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay và trả nợ của bên vay: Công tác này được thực hiện trước và sau khi cho vay (cho đến khi thu hồi hết nợ), nhằm thực hiện các mục tiêu tín dụng an toàn, hiệu quả. Khi cho vay, TCTD không chỉ chú trọng áp dụng các biện pháp bảo đảm theo quy định của pháp luật dân sự, mà còn phải thiết lập cơ chế giám sát ngay từ khi tiếp nhận hồ sơ vay vốn cho đến khi thu hồi hết nợ (thanh lý hợp đồng) thông qua công tác: kiểm soát dòng tiền vay, các điều kiện giải ngân, hiệu quả dự án đầu tư, sử dụng vốn vay..., kịp thời phát hiện, ngăn chặn sai phạm có thể xảy ra để giảm thiểu rủi ro hợp đồng.
+ Nghĩa vụ chấp hành quy định về giải ngân, không được tự ý chấm dứt cho vay trong trường hợp bên vay không có sai phạm: TCTD là định chế tài chính, có chức năng “đi vay để cho vay”, nên phải chuẩn bị nguồn tiền vay, dự phòng tín dụng hợp lý. TCTD không thể lấy lý do không có tiền để từ chối giải ngân theo tiến độ được ghi trong hợp đồng. Trường hợp vi phạm nghĩa vụ này, TCTD phải bồi thường thiệt hại, cho dù các bên có thỏa thuận biện pháp chế tài trong hợp đồng hay không.
+ Nghĩa vụ cung cấp thông tin theo yêu cầu của bên vay (các thông tin về lãi suất, số dư nợ gốc, nợ lãi, phí tín dụng…): Bên vay có quyền yêu cầu bên cho vay cung cấp thông tin về khoản vay, chính sách lãi suất của TCTD. Nghĩa vụ cung cấp thông tin của TCTD có ý nghĩa quan trọng giúp cho bên vay xác định kế hoạch chi trả nợ, kịp thời phát hiện những sai phạm để thực hiện quyền khiếu nại, khởi kiện. Thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ này còn nhằm minh bạch tín dụng, hạn chế tình trạng thu phí tràn lan, tính lãi suất không đúng pháp luật.
- Về quyền và nghĩa vụ của bên vay:
Căn cứ vào cơ sở phát sinh, quyền và nghĩa vụ của bên vay tạm chia thành hai nhóm: Quyền và nghĩa vụ của bên vay phát sinh từ pháp luật; và Quyền và nghĩa vụ của bên vay phát sinh từ hợp đồng. Mặc dù trong thực tế, trong nội dung HĐCV có nhiều nội dung quyền và nghĩa vụ của bên vay được chuyển tải nguyên vẹn từ các quy định pháp luật.
Nhóm thứ nhất: Các quyền và nghĩa vụ của bên vay theo pháp luật.
+ Quyền được tiếp cận vốn tín dụng: Quyền được tiếp cận tín dụng là khái niệm dùng để chỉ các tổ chức, cá nhân được phép tiếp cận tín dụng một cách ưu đãi, minh bạch, công bằng. Đây là quyền dân sự, kinh tế cơ bản, phạm vi rộng hẹp của
quyền năng này tùy thuộc vào năng lực tổ chức, thực hiện của từng quốc gia. Biểu hiện của các quyền này được thực hiện thông qua: quyền tiếp cận công bằng chính sách lãi suất cho vay của nhà nước, của các TCTD; quyền vay vốn của người nghèo, doanh nghiệp quy mô nhỏ, tài chính eo hẹp; khả năng (quản lý nhà nước) xóa bỏ những rào cản làm hạn chế tiếp cận tín dụng…
+ Quyền được khiếu nại, khởi kiện khi bên cho vay vi phạm HĐCV: Bên vay được quyền khiếu nại đến TCTD về các vấn đề liên quan đến giao dịch vay. Trường hợp khiếu nại không được giải quyết thì yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước giải quyết theo thẩm quyền hoặc khởi kiện ra tòa án. Các khiếu nại này thông thường là: khiếu nại hành vi từ chối cho vay không có căn cứ; yêu cầu giải ngân theo hợp đồng; khiếu nại về cách tính lãi suất, phí tín dụng không đúng; định giá, xử lý tài sản bảo đảm không minh bạch… Các TCTD, cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan tố tụng có trách nhiệm giải quyết khiếu nại theo thẩm quyền.
+ Nghĩa vụ sử dụng tiền vay hiệu quả và đúng mục đích: Quy định này được luật hóa ngay từ khi hình thành pháp luật về cho vay nhằm phát huy hiệu quả sử dụng tiền vay, tăng khả năng hoàn trả nợ. Yếu tố hiệu quả của nghĩa vụ sử dụng tiền vay là cơ sở để bảo đảm cho các nghĩa vụ hoàn trả nợ của bên vay. Trường hợp mục đích sử dụng vốn không hiệu quả như mục tiêu ban đầu đã cam kết, thì TCTD được quyền áp dụng các biện pháp nghiệp vụ chấm dứt cho vay, thu hồi tiền vay.
+ Nghĩa vụ tuân thủ sự kiểm tra, giám sát của bên cho vay: Đây là nghĩa vụ chủ yếu của hợp đồng, bên vay nếu không tuân thủ, TCTD được quyền chấm dứt cho vay, thu hồi vốn vay. Nghĩa vụ này gắn liền với các tiêu chí cụ thể nhằm để bảo đảm thực hiện xuyên suốt.
Công tác kiểm tra giám sát đòi hỏi người thực hiện phải có trình độ nghiệp vụ nhất định, kịp thời phát hiện tình trạng bên vay che dấu khuyết điểm, sai phạm. Công tác này không cản trở quyền tự do kinh doanh của tổ chức, cá nhân mà được thực hiện để bảo đảm cho khoản vay được hiệu quả, an toàn hơn.
Nhóm thứ hai: Quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng.
+ Quyền yêu cầu ngân hàng giải ngân theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng: Bên vay tham gia ký kết HĐCV để nhận tiền vay sử dụng vào mục đích ấn định trước của mình. Về lý thuyết, nếu TCTD chủ quan, đánh giá sai mức độ hiệu quả việc sử dụng vốn vay để không giải ngân sẽ gây thiệt hại cho bên vay. Vì vậy, pháp luật cần có các biện pháp chế tài vi phạm trong trường hợp này để bảo đảm công bằng quyền lợi cho bên vay. Quyền khiếu nại của bên vay cần được xem xét dưới nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau. Trường hợp hành vi không giải ngân của bên cho vay xuất phát từ yêu cầu quản lý, kiểm soát tín dụng của nhà nước, tuân thủ chỉ thị của ngành ngân hàng thì bên cho vay không vi phạm HĐCV.
+ Nghĩa vụ hoàn trả nợ gốc và lãi đúng hạn: Bên vay với tư cách là chủ sở hữu tiền vay tạm thời nên phải tuân thủ các điều kiện khắt khe khi sử dụng tiền vay như đã cam kết ghi trong các thỏa thuận vay. Để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ này, pháp luật