đặt ra các biện pháp bảo đảm hoàn trả tiền vay, các chế tài đối với hành vi vi phạm cam kết hợp đồng, cho phép bên cho vay thực hiện các biện pháp chủ động để công tác thu hồi đầy đủ nợ được thực thi trên thực tế.
2.2.3. Giao kết, thực hiện và giải quyết tranh chấp hợp đồng cho vay
2.2.3.1. Giao kết, thực hiện hợp đồng cho vay
a) Các yêu cầu, nội dung trong giao kết, thực hiện hợp đồng cho vay
HĐCV có hiệu lực là căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên, nên phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện về chủ thể, hình thức và nội dung được pháp luật quy định, khi đó mới có hiệu lực về toàn bộ cam kết để thực hiện.
- Chủ thể giao kết hợp đồng cho vay: Pháp luật về chủ thể HĐCV là tổng thể những quy định đối với tổ chức, cá nhân tham gia quan hệ HĐCV (kể cả những chủ thể thuộc các trường hợp cấm cho vay và giới hạn cho vay, nhằm bảo đảm an toàn tín dụng). Việc phân loại chủ thể của HĐCV với những đặc thù của từng chủ thể đã được luận án đề cập, phân tích cụ thể tại điểm a, mục 2.2.2.2 của luận án.
- Hình thức của hợp đồng cho vay: HĐCV thể hiện dưới hình thức văn bản, ghi rõ đầy đủ số tiền vay, thời điểm giải ngân, phạm vi tài sản bảo đảm, phương thức xử lý tài sản,… khi đó mới ràng buộc trách nhiệm của các bên, bảo đảm nghĩa vụ hợp đồng được thực thi đầy đủ. Trường hợp, hợp đồng vay không đáp ứng đầy đủ các yêu cầu hình thức văn bản với các nội dung cơ bản được luật định, đương nhiên hợp đồng đó sẽ không có giá trị pháp lý. Thỏa thuận vay khi đó sẽ mang đến những rủi ro, nguy cơ mất an toàn vay.
- Nội dung các điều khoản của hợp đồng cho vay
Bao gồm những điều khoản cơ bản, điều khoản thông thường, được các bên thỏa thuận ghi cụ thể trong hợp đồng. Trong đó, những điều khoản cơ bản có ý nghĩa xác định nội dung chủ yếu, bắt buộc không thể thiếu được khi giao kết hợp đồng vay:
Có thể bạn quan tâm!
- Điều Chỉnh Bằng Pháp Luật Quan Hệ Hợp Đồng Cho Vay Trong Lĩnh Vực Tín Dụng Ngân Hàng
- Các Yếu Tố Phát Sinh, Thay Đổi Hoặc Chấm Dứt Quan Hệ Pháp Luật Về Hợp Đồng Cho Vay
- Nội Dung Của Quan Hệ Pháp Luật Về Hợp Đồng Cho Vay
- Tiêu Chí Đánh Giá Hiệu Quả Áp Dụng Pháp Luật Hợp Đồng Cho Vay
- Quyền Tiếp Cận Tín Dụng Của Khách Hàng Tiềm Năng
- Mối Quan Hệ Pháp Lý Đối Với Hợp Đồng Bảo Đảm
Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.
+ Đối tượng của hợp đồng vay: Là khoản tiền vay cụ thể ghi rõ thời điểm được giải ngân, lãi suất, phí. Khoản tiền này phải trong hạn mức pháp luật cho phép cấp tín dụng đối với từng khách hàng vay. Do đặc thù cho vay trong lĩnh vực ngân hàng nhiều rủi ro, TCTD khi cho vay phải có biện pháp dự phòng, điều chỉnh lãi suất thích hợp. Vì vậy, chính sách lãi suất của các TCTD phải minh bạch, không để xảy ra tình trạng bên vay phải gánh chịu những thiệt hại khi TCTD áp dụng lãi suất điều chỉnh.
+ Thời hạn vay vốn: Ngân hàng huy động vốn bằng các kỳ hạn, theo nhu cầu ngắn hạn hay dài hạn của người gửi tiền. Việc sử dụng vốn cho vay phải theo kế hoạch nhất định để bảo đảm hiệu quả, cân xứng với thời gian huy động vốn, không để nguồn vốn huy động bị tồn đọng làm phát sinh chi phí, hiệu quả kinh tế thấp hoặc ngược lại. Dựa vào nhu cầu của bên vay, TCTD thường áp dụng các nghiệp vụ cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn với các phương thức vay vốn phù hợp với nhu cầu tín dụng nên HĐCV cũng phải thể hiện các nghiệp vụ cho vay tương ứng với thời hạn vay.
+ Mục đích sử dụng vốn vay: Quy định về mục đích sử dụng vốn trong HĐCV không làm hạn chế quyền tự do kinh doanh của bên vay. Bên vay vẫn có quyền lựa chọn phương thức kinh doanh, đầu tư; lựa chọn công nghệ sản xuất,… để tiến hành hoạt động kinh doanh bình thường của mình. Mục đích sử dụng vốn được TCTD đặt ra, ghi trong HĐCV bên cạnh nâng cao năng lực kiểm soát tín dụng (thẩm định hiệu quả khoản vay để đưa ra hạn mức phù hợp, dự liệu những rủi ro có thể xảy ra, kịp thời ngăn chặn hành vi sử dụng vốn trái pháp luật), còn nhằm làm gia tăng giá trị tài sản của bên vay, bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả nợ tốt hơn.
+ Điều khoản về giải ngân: Ngoài các điều kiện vay vốn khung được pháp luật quy định trước khi ký kết HĐCV, được bên vay cam kết thực hiện. Các TCTD thường bổ sung các điều kiện thực hiện hợp đồng (chẳng hạn: điều kiện về tuân thủ các nghĩa vụ hợp đồng, điều kiện hoàn trả tiền vay và lãi suất, điều kiện được giải ngân, điều kiện xử lý tài sản bảo đảm). Các điều kiện này phải phù hợp với các phương thức vay vốn, gắn liền với trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng của bên vay.
TCTD thường đặt ra nhiều điều kiện giải ngân không hợp lý, gây khó khăn cho bên vay. Do đó, các cam kết ghi trong hợp đồng vay cần phải tuân thủ nguyên tắc chung: Chỉ những điều kiện, lý do có thể gây trở ngại, ảnh hưởng đến nguy cơ rủi ro, mất an toàn cho vay, khi đó TCTD mới được thực hiện quyền này.
+ Bảo đảm tiền vay: Đây là yêu cầu bắt buộc khi cho vay, được các TCTD quán triệt thực hiện, áp dụng thường xuyên, phổ biến để khoản vay được an toàn. Trên lý thuyết, HĐCV và hợp đồng bảo đảm phải có liên hệ chặt chẽ, ràng buộc lẫn nhau để bảo đảm tính hiệu lực của hợp đồng. Sự thiếu liên kết dẫn đến hệ quả là những hợp đồng này không ràng buộc nghĩa vụ đối với HĐCV, khoản nợ vay khi đó trở thành nợ không bảo đảm, công tác thu hồi nợ, kể cả khi vận dụng cơ chế chủ động xử lý nợ sẽ gặp không ít những khó khăn.
+ Quyền và nghĩa vụ của các bên trong HĐCV: Quyền, nghĩa vụ của các bên đã được luận án đề cập phân tích tại điểm c, tiểu mục 2.2.2.2 của luận án. Quyền, nghĩa vụ này được các bên thỏa thuận khi ký kết HĐCV, kể cả sau khi TCTD giải ngân (chế tài, xử lý nợ). Việc phân chia quyền và nghĩa vụ hợp đồng khi ký kết và thực hiện điều khoản của HĐCV (trên cơ sở hành vi giải ngân của TCTD) là căn cứ để đánh giá bản chất pháp lý của HĐCV, làm sáng tỏ hơn ý nghĩa của từng điều khoản ở giai đoạn hợp đồng này.Về nguyên tắc, các quyền và nghĩa vụ này phải cân xứng nhau, xuất phát từ tính bình đẳng của quan hệ hợp đồng.
+ Trách nhiệm pháp lý do vi phạm HĐCV: Các biện pháp chế tài vi phạm hợp đồng vay được pháp luật đặt ra phải phù hợp với đối tượng vốn tiền tệ theo hướng bất lợi hơn đối với bên vi phạm. Về nguyên tắc, bên cho vay được quyền chấm dứt cho vay, thu hồi vốn vay trước hạn nếu bên vay cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng... Đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền vay, bên vay phải chịu chế tài bằng lãi suất nợ quá hạn.
+ Cơ cấu lại thời hạn trả nợ: TCTD là bên cho vay, họ cũng phải hoàn trả tiền gửi đến hạn mà không được viện dẫn bất kỳ lý do gì để trì hoãn, gia giảm thực hiện nghĩa vụ này, kể cả khi TCTD gặp khó khăn, bên vay không trả được nợ,… Do đó, cơ cấu lại thời hạn trả nợ không chỉ dừng lại ở phạm vi ý chí của các bên hợp đồng, mà còn phải đáp điều kiện khắt khe được nhà nước đặt ra để bảo đảm an toàn tín dụng. Song các điều kiện đó cũng phải mở ra hướng đi cho các TCTD và khách hàng thực hiện các quyền này, trong đó lợi ích chính đáng của các chủ thể hợp đồng cần được các nhà làm luật thật sự quan tâm.
+ Xử lý tài sản thu hồi nợ: Thuật ngữ “thu hồi nợ” là khái niệm rộng, bao gồm các nghiệp vụ xử lý tài sản bảo đảm, hoán đổi nợ thành vốn góp,91… từ khi phát sinh nợ cho đến khi bên vay trả hết nợ. Nghiệp vụ này được thực hiện kể cả trong hoạt động tài phán nếu bên vay không hợp tác, bắt buộc phải đưa tranh chấp, yêu cầu của họ (TCTD) ra các cơ quan này giải quyết.
Ngoài điều khoản cơ bản trên, các bên có thể thỏa thuận những điều khoản thông thường như miễn giảm lãi, thỏa thuận nơi giải quyết tranh chấp... Những thỏa thuận về điều khoản thông thường này cũng phải phù hợp với quy định của pháp luật để có cơ sở thực hiện.
b) Quy trình giao kết, thực hiện hợp đồng cho vay
Quy trình ký kết, thực hiện HĐCV gồm nhiều công đoạn khác nhau, bắt đầu từ lúc tiếp nhận hồ sơ vay vốn cho đến khi bên cho vay thu hồi hết nợ. Quy trình này như sau: lập hồ sơ đề nghị ký kết HĐCV (hồ sơ tín dụng); xét duyệt cho vay; ký kết HĐCV, hợp đồng bảo đảm; thực hiện HĐCV (giải ngân, kiểm tra, giám sát sử dụng vốn vay, thu hồi nợ).
- Đề nghị ký kết HĐCV: Đây là một biện pháp nghiệp vụ, pháp lý mang tính chất bắt buộc đối với các bên. Theo đó, bên vay phải lập hồ sơ đề nghị ký kết hợp đồng vay (bộ phận quan hệ khách hàng của TCTD thường hỗ trợ thủ tục này). Hồ sơ vay vốn phải thể hiện đầy đủ thông tin về số tiền vay, điều kiện vay vốn, tài liệu chứng từ bảo đảm tiền vay, mục đích sử dụng vốn, phương án sản xuất, kinh doanh (luận chứng kinh tế, kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường…). Chỉ những hồ sơ đủ điều kiện vay vốn, phù hợp pháp luật mới được phép xét duyệt cho vay. Trường hợp không đáp ứng yêu cầu trên, TCTD có thể yêu cầu khách hàng bổ sung hồ sơ năng lực vay hoặc từ chối cho vay.
Để chủ động tìm kiếm khách hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh, các ngân hàng tích cực mời chào cấp tín dụng, đơn giản thủ tục vay, bỏ qua thủ tục làm đơn xin
91 Thỏa thuận hoán đổi nợ thành vốn góp thường không được các bên đề cập, ghi trong HĐCV trong thực tế vì còn phụ thuộc vào các điều kiện pháp luật đặt ra khi áp dụng biện pháp này. Điểm tích cực của biện pháp này là nó sẽ mang lại lợi ích cho cả hai bên, giúp khách hàng phục hồi kinh doanh, thoát khỏi nợ xấu. Nhưng bên cạnh đó quy định này sẽ không tránh khỏi tình trạng che dấu nợ xấu, ngân hàng không tập trung vào hoạt động kinh doanh. Do đó ngành ngân hàng đang thận trọng lấy ý kiến các chuyên gia trước khi ban hành quy định liên quan đến biện pháp này
cấp tín dụng,… Những trường hợp khách hàng có tín nhiệm cao, quan hệ tín dụng tốt, TCTD có thể cho vay tín chấp, không cần tiến hành các thủ tục giao dịch bảo đảm vốn dĩ rườm rà, phức tạp.
- Thủ tục xét duyệt tín dụng: Đây là quy trình bắt buộc khi cho vay, gắn liền với hiệu quả thực thi hợp đồng. Đối với khoản vay lớn, phức tạp, TCTD phải tiến hành thủ tục kiểm định, thẩm định trên nguyên tắc, đáp ứng các điều kiện vay vốn được pháp luật quy định (các chi nhánh, hội sở, hội đồng ngân hàng được phân định xét duyệt khoản vay theo từng hạn mức nhất định để khoản vay an toàn hơn, đồng thời chủ động sắp xếp giải ngân theo tiến độ đối với những hợp đồng có giá trị vay lớn).
Công tác xét duyệt tín dụng còn có ý nghĩa ràng buộc trách nhiệm với bên vay ngay từ giai đoạn trước khi ký kết hợp đồng. Mặc dù pháp luật không quy định cụ thể nhưng kết thúc giai đoạn xét duyệt tín dụng, TCTD phải có văn bản (quyết định) chấp thuận hoặc từ chối cho vay, ghi rõ các lý do xác đáng.
- Ký kết HĐCV: Hành vi ký kết HĐCV là căn cứ thể hiện sự đồng ý của các bên về những điều khoản của hợp đồng để thực thi. Khác với các giao dịch thương mại bình thường, các bên chỉ cần có đề nghị ký kết dưới hình thức đơn thư chào hàng, cung ứng dịch vụ được chấp nhận, thì ký kết HĐCV là kết quả của quá trình xét duyệt tín dụng, thể hiện ý chí của các bên về những cam kết sẽ thực hiện nên các bên phải gặp gỡ trực tiếp ký, đóng dấu (chứng minh tư cách pháp nhân) vào bản hợp đồng.
Người ký kết HĐCV phải có năng lực, thẩm quyền hợp pháp. Nếu là tổ chức có tư cách pháp nhân, người ký kết hợp đồng phải do người đại diện theo pháp luật thực hiện, trường hợp khác phải có văn bản ủy quyền hợp pháp. HĐCV sau khi ký kết có giá trị ràng buộc nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên, các bên phải thực hiện nghiêm túc nội dung hợp đồng theo như thỏa thuận.
Thông thường việc ký kết HĐCV được tiến hành tại nơi thực hiện hợp đồng (ngân hàng nơi cấp tín dụng). Hợp đồng phải ghi rõ nơi ký kết, làm cơ sở thực hiện, xác định thẩm quyền của tòa án, trọng tài khi giải quyết tranh chấp về sau.
- Thực hiện HĐCV: Các bên có trách nhiệm tuân thủ các cam kết, nếu vi phạm hợp đồng phải chịu phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại. Quá trình thực hiện hợp đồng, bên vay phải tuân thủ công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ của TCTD. Những thay đổi điều khoản hợp đồng phải được thực hiện trên tinh thần thương lượng, thống nhất, không trái pháp luật, đồng thời cũng phải được lập thành văn bản do người có thẩm quyền ký kết.
2.2.3.2. Tranh chấp và giải quyết tranh chấp hợp đồng cho vay
Tranh chấp theo nghĩa thông thường là khi một bên có hành vi vi phạm hợp đồng, xâm hại đến quyền lợi hợp pháp của bên kia. Các bên hợp đồng cần phân biệt, làm rõ phạm vi tranh chấp, tránh tình trạng yêu cầu sai, bị cơ quan tố tụng tuyên bác
bỏ, phải chịu án phí, lệ phí tòa án, trọng tài, việc giải quyết quyền lợi hợp đồng sau đó sẽ gặp nhiều khó khăn hơn.
Trong giao dịch vay, tranh chấp thường xảy ra ở các khoản vay ngắn hạn đầu cơ bất động sản, cổ phiếu, khi có biến động, chính sách thắt chặt tiền tệ, bên vay không trả được nợ; doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ; ngân hàng không thẩm định, đánh giá đúng giá trị tài sản bảo đảm, hiệu quả đầu tư có sử dụng vốn vay; lơ là, yếu kém trong công tác giám sát rủi ro, xử lý nợ,… Vì vậy, các TCTD phải chủ động thiết kế các phương án phòng ngừa, hạn chế tranh chấp, gây mất thời gian, tiền bạc.
Thời điểm phát sinh tranh chấp, đó có thể là thời điểm phát sinh nghĩa vụ thanh toán, vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng vay, thời điểm vi phạm những thỏa thuận được các bên ký kết trong quá trình xử lý nợ hoặc các hành vi không thực hiện để bảo đảm các quyền được xử lý tài sản của bên cho vay.
Công tác giải quyết tranh chấp HĐCV được tiến hành thông qua các hoạt động đàm phán, thương lượng để tìm kiếm sự đồng thuận, hoặc bằng tố tụng tài phán.
- Về biện pháp thương lượng: Quan hệ HĐCV phức tạp kéo dài, thường phát sinh nhiều vấn đề các bên chưa dự liệu đến tại thời điểm ký kết hợp đồng. Khi phát sinh mâu thuẫn, tranh chấp, các bên cần có thiện chí hợp tác, tìm kiếm sự đồng thuận để giải quyết những bất đồng đó. Đối với các khoản nợ, các bên có thể đàm phán, thỏa thuận xử lý tài sản bảo đảm, nhanh chóng cấn trừ nợ, giảm bớt áp lực phát sinh lãi suất do bị chuyển nợ quá hạn. Trường hợp không giải quyết được thì các bên có thể yêu cầu tòa án, trọng tài giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự, tố tụng trọng tài. Phán quyết của tòa án, trọng tài có hiệu lực sẽ được bảo đảm thi hành theo tự nguyện hoặc thông qua cơ quan thi hành án dân sự, nếu có yêu cầu.
- Về biện pháp tài phán: Thông thường các bên thỏa thuận cơ quan này tại nơi ký kết hợp đồng (nơi có chi nhánh, văn phòng đại diện của TCTD), hoặc nơi bên vay là doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh (nơi bị đơn có trụ sở). Đối với những hợp đồng vay có thỏa thuận tổ chức trọng tài giải quyết tranh chấp, về nguyên tắc tòa án không được thụ lý giải quyết. Điều khoản về thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng vay thông thường phải thể hiện đầy đủ nội dung điều khoản mẫu của tổ chức trọng tài được các bên lựa chọn,92 nhằm hạn chế những tranh chấp về cơ quan có thẩm quyền giải quyết về sau, đẩy sự việc kéo dài.
Tranh chấp HĐCV chiếm tỷ trọng lớn trong số án kinh doanh thương mại được thụ lý giải quyết, song cơ chế xét xử, giải quyết tranh chấp bằng thủ tục tố tụng, với những đặc thù riêng, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giải quyết tranh chấp:
92 Ví dụ: Điều khoản lựa chọn trọng tài mẫu của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam có nội dung như sau: “Mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải quyết bằng trọng tài tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) theo Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm này” hoặc, “Mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải quyết bằng trọng tài tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VIAC) theo Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm này”. Xem tại: http://viac.vn/dieu-khoan-trong-tai-mau-c161.html, truy cập ngày 24/2/2019
i) Quan hệ cho vay được xem là quan hệ dân sự, kinh doanh như các vụ án khác, nên chưa được nhìn nhận cho phép áp dụng thủ tục rút gọn, rút ngắn thời hạn, thủ tục giải quyết tranh chấp; Thời hạn giải quyết trên thực tế thường kéo dài, cho dù pháp luật tố tụng dân sự quy định khoảng thời hạn này tương đối cụ thể, rõ ràng;93 Việc giải quyết còn thiếu sót thành phần tham gia tố tụng, giải quyết không đầy đủ yêu cầu của đương sự,… Nguyên nhân của hiện tượng trên là do các tranh chấp gắn với tài sản vốn dĩ phức tạp, quy định rải rác trong nhiều văn bản luật, khó áp dụng, vẫn còn nhiều lỗi chủ quan dẫn đến việc ban hành các phán quyết chưa chính xác.94
ii) Chế định trọng tài chưa phù hợp với đặc thù giải quyết tranh chấp án tín dụng gắn liền với công tác xử lý tài sản bảo đảm, nhiều thủ tục phức tạp (thẩm định giá, kê biên tài sản…); thói quen, niềm tin sử dụng tổ chức trọng tài để giải quyết tranh chấp tại Việt Nam đối với doanh nghiệp, cá nhân, TCTD trong nước chưa cao.
Dựa trên lý thuyết về chi phí và hiệu quả như luận án đề cập, có thể thấy lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng con đường tài phán so với các biện pháp khác chưa thật sự hiệu quả, làm tốn kém nguồn nhân lực cho các TCTD (vì phải tập trung nhân lực giải quyết tranh chấp), nguồn vốn tín dụng bị tắt nghẽn, rủi ro pháp lý cao. Do đó, thiết lập cơ chế giải quyết tranh chấp nhanh chóng, chủ động, hiệu quả, chú trọng bảo vệ khách thể là các lợi ích cốt lõi, an toàn của ngành ngân hàng là những vấn đề được luận án quan tâm giải quyết.95
2.3. HỆ THỐNG TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CHO VAY TRONG LĨNH VỰC TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
Đánh giá hiệu quả pháp luật về HĐCV là công việc cần thiết để: kết luận về sự cần thiết tiếp tục duy trì, sửa đổi, chấm dứt một văn bản quy phạm pháp luật; kết luận về tính khả thi của pháp luật, về chi phí, nhân lực; đưa ra những giải pháp, kiến nghị phù hợp, có cơ sở khoa học, thực tiễn đáp ứng nhu cầu xây dựng, hoàn thiện pháp luật.
2.3.1. Tiêu chí đánh giá chất lượng pháp luật hợp đồng cho vay
2.3.1.1. Nâng cao hiệu quả vay, đáp ứng với các mục tiêu phát triển tín dụng
Pháp luật về HĐCV được ban hành phải phù hợp nhu cầu phát triển tín dụng. Các nhu cầu này thể hiện thông qua các nghị quyết chỉ đạo của Đảng, được đúc kết
93 Theo quy định, tranh chấp án dân sự (HĐCV được ký giữa TCTD với cá nhân nhằm mục đích sinh hoạt, tiêu dùng) có thời hạn xét xử là 04 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án (Điều 26; điểm a, khoản 1, Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015); tranh chấp án kinh doanh thương mại (HĐCV được ký kết giữa TCTD với doanh nghiệp, cá nhân có đăng ký kinh doanh nhằm mục đích lợi nhuận) thời hạn này là 02 tháng (khoản 1, Điều 30; điểm b, khoản 1, Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015). Đối với những vụ án phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì tòa án có thể gia hạn thời hạn, nhưng không quá từ 01 đến 02 tháng.
94 Hệ lụy là, nhiều bản án, quyết định bị tòa án cấp trên tuyên hủy, sửa, làm giảm niềm tin của các đương sự vào tòa án. Như vậy, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động xét xử của tòa án còn nhiều hạn chế do chủ quan được ngành tòa án chỉ rõ trong các báo cáo tổng kết hàng năm. Xem thêm: Tòa án nhân dân tối cao (2016), Tài liệu Hội nghị triển khai công tác năm 2016 của Tòa án nhân dân, Hà Nội, tr. 24, 25
95 Xem thêm: Tiểu mục 3.3.5.3. Xử lý tài sản theo hợp đồng cho vay và hợp đồng bảo đảm
qua lý luận và thực tiễn. Trong đó, các chủ trương về cho vay đã được các nhà nghiên cứu kinh tế, pháp luật bàn bạc thảo luận và đánh giá có luận cứ vững chắc.
HĐCV là hình thức pháp lý của quan hệ cho vay, phương tiện thể hiện nội dung thỏa thuận để các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình.96 Do vậy, các quy định được đặt ra cũng phải phù hợp, hiệu quả, gắn liền nhu cầu, mục tiêu phát triển tín dụng, kinh tế.
- Về mục tiêu phát triển tín dụng chung: Theo số liệu thống kê, kết quả tăng trưởng tín dụng năm 2017 đạt được 19%, dự báo duy trì tăng trưởng tiếp tục ổn định trong năm 2018.97 Để đạt được mục tiêu như dự báo, các TCTD thông qua hành vi ký kết HĐCV phải đưa ra thị trường lãi suất cạnh tranh, không làm phát sinh chi phí, mang lại nhiều tiện ích, tạo niềm tin cho khách hàng trong suốt thời hạn của hợp đồng, hạn chế thấp nhất những rủi ro. Khi đó, quan hệ giữa các TCTD với khách hàng được mở rộng, hiệu quả hợp đồng vay nâng cao. Đây cũng là mục tiêu chung nhằm hướng đến công tác bảo đảm quyền tiếp cận tín dụng, bảo đảm mục tiêu kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu quả khi cho vay của các TCTD.
- Về các mục tiêu cụ thể: Nghị quyết số 05-NQ/TW của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, tại điểm 4.2 mục III đã xác định vai trò trọng tâm của các TCTD giai đoạn hiện nay như sau: tăng cường công tác thanh tra, giám sát, quản trị rủi ro; tập trung xử lý nợ xấu;… Do vậy, những yêu cầu khi đánh giá, hoàn thiện pháp luật về HĐCV cũng phải gắn liền với các nhiệm vụ được vạch ra. Đó là nhiệm vụ: nâng cao năng lực kiểm tra, giám sát HĐCV; có biện pháp xử lý hiệu quả, kịp thời những vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện HĐCV, kể cả xử lý tốt bằng nghiệp vụ, pháp lý các khoản nợ phát sinh.
Cụ thể hóa chủ trương của Đảng như nêu trên, Nghị quyết số 27/NQ-CP ngày 21/2/2017 của Chính phủ đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 đưa tỷ lệ nợ xấu xuống dưới 3%.98 Số liệu này cũng là những mục tiêu cụ thể, tiêu biểu đòi hỏi cần các nhà làm luật, các cơ quan quản lý ngành ngân hàng phải có giải pháp đột phá cho phép TCTD chủ động xử lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận của các bên, giảm tỷ lệ nợ về đúng định mức cho phép, đạt được những mục tiêu Chính phủ đã đề ra.
2.3.1.2. Kịp thời, đồng bộ; ổn định, minh bạch, không chồng chéo
Các văn bản luật mang tính định khung, khó vận dụng vào tình huống, vụ việc cụ thể, nên cần có hướng dẫn kịp thời, thống nhất khi áp dụng. Vì vậy, tiêu chí chất lượng của pháp luật về HĐCV phải đảm bảo các yêu cầu sau đây:
Thứ nhất, pháp luật HĐCV được ban hành phải kịp thời, đồng bộ, không chồng chéo. Để thực hiện tiêu chí này, các nhà làm luật, các cơ quan quản lý nhà nước cần
96 Xem: Hình thức hợp đồng, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb. Tư pháp, tr. 363 97 Ủy ban giám sát tài chính quốc gia (2017), Tlđd (71), tr.13, http://nfsc.gov.vn/sites/default/files/bccp2017m12_final.pdf, truy cập ngày 03/8/2018
98 Tỷ lệ này không bao gồm nợ xấu của các NHTM yếu kém, Chính phủ phê duyệt xử lý theo phương án riêng
tiến hành rà soát, đánh giá những thiếu sót trong quá trình thực thi pháp luật, thực tiễn giải quyết tranh chấp, không để xảy ra tình trạng văn bản dưới luật mâu thuẫn với luật.
Thứ hai, TCTD tổ chức đánh giá hiệu quả, chỉ ra những lỗ hổng, tiến đến hoàn thiện các quy định cho vay nội bộ, làm rõ nguyên tắc, thẩm quyền ký kết, thực hiện HĐCV; kiểm tra, giám sát cho vay; thu hồi nợ… tiến đến mục tiêu xây dựng hoàn thiện cẩm nang về quy trình cho vay an toàn, hiệu quả.
Thứ ba, cụ thể hóa các quyền tự do kinh doanh, quyền tiếp cận vốn vay của cộng đồng doanh nghiệp, cá nhân. Để thực hiện tiêu chí này, bên cạnh làm rõ những luận điểm trong khoa học, công tác nghiên cứu phải định vị các quyền này, đánh giá thực trạng pháp luật đã đạt được mục tiêu, yêu cầu ở mức độ nào, có những giải pháp để hoàn thiện, bảo đảm các quyền cơ bản về tín dụng nêu trên được thực thi.
Thứ tư, pháp luật về HĐCV phải ổn định, có giá trị thực thi lâu dài, kịp thời hướng dẫn để giải quyết các vướng mắc phát sinh trong quá trình áp dụng pháp luật. Thông qua công tác đánh giá thực trạng, luận án dự báo tác động hiệu quả thực thi pháp luật, xem đây như một thước đo đánh giá tính ổn định, lâu dài của văn bản luật. Các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng phải chủ động hướng dẫn, tìm ra các biện pháp xử lý, sớm khắc phục những chồng chéo, kịp thời hỗ trợ các TCTD về nghiệp vụ, kịp thời phát hiện sai phạm của các cấp tòa án trong hoạt động xét xử để có kiến nghị đúng đắn, tránh gây tâm lý hoang mang trong các TCTD khi cho vay sẽ gây ra sai phạm, bị truy cứu trách nhiệm dân sự, hình sự.
2.3.1.3. Giải quyết hài hòa, đúng mực về lợi ích của các bên
Các bên khi tham gia quan hệ HĐCV đều nhằm hướng đến lợi ích vật chất nhất định. Những lợi ích này còn phải phù hợp vì mục tiêu an toàn của hệ thống tiền tệ, trong đó có xét đến vai trò điều tiết, quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước. Do đó, pháp luật HĐCV khi sửa đổi, bổ sung bắt buộc phải bảo đảm công bằng, hài hòa lợi ích của các bên.
- Đối với cơ quan quản lý nhà nước: Tác động từ các HĐCV an toàn, hiệu quả sẽ đem lại lợi ích chung và trật tự, ổn định của nền kinh tế, đáp ứng yêu cầu hoàn thiện thể chế, bảo đảm sự phát triển lành mạnh, ổn định của các TCTD. Vì vậy, các quy định của pháp luật phải hướng đến lợi ích công cộng, triệt tiêu nguy cơ đe dọa, gây mất ổn định hệ thống ngân hàng.
- Đối với các TCTD: Pháp luật được ban hành phải duy trì bảo đảm tính chủ động, hiệu quả, sáng tạo. Các quy định của pháp luật về HĐCV phải hướng đến mục tiêu nhận diện những rủi ro, đồng thời đưa ra các biện pháp phòng ngừa, khắc phục những rủi ro đó trong suốt quy trình tín dụng, mang lại lợi ích thiết thực.
- Đối với khách hàng vay vốn: Quyền lợi của bên vay phải hài hòa về lợi ích, đặc biệt cần lưu ý đến quyền lợi của những chủ thể yếu thế, những chủ thể vay vốn nhằm mục đích tiêu dùng; nâng cao ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật, không để