Một Số Bất Cập Về Pháp Luật Liên Quan Đến Xử Lý Nợ Xấu

Tổng giá trị vụ án Epco Minh Phụng Tòa án tuyên giao cho ICB để cân trừ nợ là 1.739 tỷ. Công ty AMC đã thực hiện tiếp nhận 94% / Tổng giá trị Tòa án tuyên giao cho ICB và một số tài sản tiếp nhận từ ngân hàng Eximbank chuyển sang. Số tài sản đã bán bình quân cao hơn 1,22 lần so với giá Tòa án giao. Các tài sản đều được tổ chức bán đấu giá công khai theo. Một số tài sản chưa hoàn chỉnh thủ tục công ty đã cho thuê và thu được 156 tỷ đồng tiền cho thuê tài sản.

Đối với nợ nhóm 2: Đây là những khoản nợ thực tế không có khả năng thu hồi do không còn đối tượng, tài sản thu nợ. ICB đã tổng hợp đầy đủ hồ sơ tài liệu để chứng minh con nợ không còn tồn tại, không còn tài sản thu nợ theo Nghị định 69/2002/NĐ-CP ngày 12/7/2002 về quản lý và xử lý nợ tồn đọng đối với doanh nghiệp nhà nước.Qua đó, báo cáo rõ thực trạng từng khoản nợ trình đoàn liên bộ thẩm định để trình Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Thủ tướng cấp nguồn xử lý, phần còn lại ICB sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý.

- Đối với nợ tồn đọng nhóm 3:

1. Qua đánh giá, phân tích, những khách hàng có khó khăn tạm thời nhưng có chuyển hướng tốt, ngân hàng đã thực hiện các biện pháp như cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giãn nợ, giảm miễn lãi tiền vay để doanh nghiệp có điều kiện tổ chức lại sản xuất, kinh doanh, tạo nguồn trả nợ ngân hàng. Phù hợp với doanh nghiệp thực hiện định giá lại nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm theo Thông tư 74/2002/TT-BTC ngày 9/9/2002 hướng dẫn việc đánh giá lại khoản nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm của ngân hàng thương mại nhà nước, ICB đã phối hợp thực hiện đánh giá lại nợ của 24 doanh nghiệp có nợ tồn đọng nhóm 3 thuộc đối tượng đánh giá lại theo Thông tư số 74/2002/TT- BTC và trình Hội đồng thẩm định báo cáo Chính phủ xử lý cho doanh nghiệp 264 tỷ đồng.

Như vậy, thành công lớn nhất của ICB sau hơn 4 năm thực hiện đề án cơ cấu lại là ICB đã cơ bản hoàn thành cơ cấu lại nợ, lành mạnh hóa tài chính,

đưa ICB từ chỗ gặp rất nhiều khó khăn đến thành công để đứng vững và trên đà hội nhập, phát triển.

Có thể nói rằng, tiến trình xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại nhà nước đã và đang đi đúng hướng, đạt được những bước tiến thành công cơ bản. Tuy nhiên, do đây là vấn đề rất phức tạp nên trong quá trình xử lý đã phát sinh không ít những khó khăn cũng như những bất cập, mà điều gây khó dễ lớn nhất chính lại có xuất phát từ hệ thống luật pháp chồng chéo của Việt Nam.‌


2.3. MỘT SỐ BẤT CẬP VỀ PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN XỬ LÝ NỢ XẤU


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.

2.3.1. Pháp luật ngân hàng liên quan đến xử lý nợ xấu

* Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ban hành Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25 tháng 04 năm 2007, về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.

Pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam - 8

Do Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN quy định việc phân loại nợ trích lập và sử dụng dự phòng thực hiện theo một khuôn khổ chung với mức sàn (tối thiểu) nên thực tế các tổ chức tín dụng có chính sách tín dụng và dự phòng khác nhau thì có thể thực hiện việc phân loại nợ và trích lập dự phòng với mức độ thận trọng khác nhau. Điều này làm cho việc so sánh tỷ lệ nợ xấu giữa các tổ chức tín dụng với nhau có thể chưa hoàn toàn tương đồng trong một số trường hợp.

Do Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN quy định việc phân loại nợ kết hợp giữa định tính và định lượng nên có thể tạo kẽ hở báo cáo chưa chính xác mức độ rủi ro thực tế của khoản nợ. Điều này đòi hỏi khả năng thanh tra trên cơ sở rủi ro của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước cần phải được cải thiện.

Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN sửa đổi Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN vẫn theo hướng này, nên vẫn còn nặng tính nguyên tắc.

* Quyết định 127/2005/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 về việc ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng (gọi tắt là Quyết định 127/2005/QĐ-NHNN).

Quyết định 127/2005/QĐ-NHNN quy định, nếu khoản vay được cơ cấu lại, việc trích lập dự phòng rủi ro phải theo Điều 22 của Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN (đã sửa đổi trong Quyết định 127/2005/QĐ-NHNN tại khoản 6 Điều 1). Như vậy, các tổ chức tín dụng sẽ không thể sử dụng việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ như là biện pháp để tránh chuyển nợ quá hạn, khi mà các khoản nợ phải chuyển sang nợ quá hạn trong mọi trường hợp. Quy định này buộc các ngân hàng xem xét việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ thuần túy trên cơ sở rủi ro, có thể tạo ra một gánh nặng đáng kể về trích lập dự phòng rủi ro cho các ngân hàng. Tuy vậy, khái niệm "được coi là nợ quá hạn" đặt ra các cách hiểu khác nhau. Điều chưa rõ là "Toàn bộ số dư nợ gốc" được quy định trong Điều 22 chỉ liên quan đến Hợp đồng tín dụng có vi phạm hay tới tất cả hợp đồng tín dụng của khách hàng vay. Cũng tương tự như vậy, không rõ là quy định đó chỉ liên quan đến tổ chức tín dụng có khoản vay bị vi phạm hay tới tất cả các tổ chức tín dụng mà khách hàng có vay vốn. Vì vậy, số dư nợ gốc bị chuyển nợ quá hạn có thể là:

(1) Số dư nợ gốc của tất cả các khoản vay của khách hàng tại tổ chức tín dụng cho vay.

(2) Số dư nợ gốc của tất cả các khoản vay của khách hàng tại tất cả các tổ chức tín dụng mà khách hàng có vay vốn

Ví dụ: Khách hàng X có khoản vay 60 triệu USD từ ngân hàng xử lý nợ xấu, được thanh toán vào 6 kỳ thanh toán nợ gốc bằng nhau, mỗi kỳ 10 triệu. Khách hàng X còn có một khoản vay khác trị giá 100 triệu từ ngân hàng xử lý

nợ xấu, khoản vay 100 triệu từ ngân hàng Y và khoản vay 100 triệu từ ngân hàng Z. Khách hàng X đã thanh toán đầy đủ 4 kỳ hạn trả nợ đầu của khoản vay 60 triệu USD nhưng không trả đúng hạn ở kỳ hạn thứ 5 và được ngân hàng xử lý nợ xấu chấp thuận điều chỉnh kỳ hạn trả nợ này. Giả sử, tất cả các khoản vay khác chưa đến hạn, số dư nợ gốc phải chuyển sang nợ quá hạn của khách hàng X có thể là:

(1) Số dư nợ gốc còn lại của hợp đồng tín dụng có vi phạm (nghĩa là 60 triệu - 40 triệu (đã được thanh toán ở 4 kỳ hạn trước) = 20 triệu

(2) Số dư nợ gốc của tất cả các khoản vay của khách hàng X tại ngân hàng X (nghĩa là 120 triệu) hoặc

(3) Số dư nợ gốc của tất cả các khoản vay của khách hàng X tại ngân hàng X, Y, Z (nghĩa là 320 triệu)

Cách giải thích (1) phù hợp với các quy định của Quy chế 1627/2001/QĐ-NHNN và các văn bản hướng dẫn thi hành chỉ áp dụng đối với việc chuyển nợ quá hạn khi khoản vay không được cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Tuy cách giải thích này có thể được áp dụng, nhưng liệu đó có phải là ý của nhà soạn thảo Luật? Quyết định 127/2005/QĐ-NHNN nhằm thay thế tất cả các quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước về tính và chuyển nợ quá hạn, và vì vậy, có thể phỏng đoán là cách giải thích (2) hoặc (3) sẽ được áp dụng.

Tính thực thi của quyết định này còn là một dấu hỏi. Nếu áp dụng hồi tố, các ngân hàng sẽ phải cân nhắc liệu có tăng chi phí vay vốn hay không và vì vậy, các ngân hàng cũng sẽ phải cân nhắc có sử dụng các điều khoản về chi phí gia tăng vốn rất tiêu chuẩn trong các hợp đồng tín dụng để buộc khách hàng thanh toán các chi phí gia tăng này hay không? Thêm nữa, nếu cách giải thích (3) được áp dụng, không rõ là quy định về chuyển nợ quá hạn tại tất cả các Tổ chức tín dụng có liên quan sẽ được thi hành trên thực tế như thế nào?

Theo dự kiến, Ngân hàng Nhà nước sẽ ban hành các quy định hướng dẫn cách tính và phân loại nợ quá hạn và trích lập dự phòng rủi ro phù hợp với các quy định mới của Quyết định 127/2005/QĐ-NHNN. Trên thực tế,

không dễ dàng dự đoán tác động cụ thể của các yêu cầu này đối với các tổ chức tín dụng, mặc dù rõ ràng là các quy định này sẽ có tác động tới tất cả các thành tố của thị trường, đặc biệt là việc trích lập dự phòng rủi ro của các ngân hàng.

Việc thi hành các quy định mới sẽ yêu cầu phải có những thay đổi tại các ngân hàng, chẳng hạn như đủ vốn chủ sở hữu và các nguồn vốn khác để trích lập dự phòng, cũng như thay đổi liên quan đến cơ cấu tổ chức, nhân sự, hệ thống thông tin và dữ liệu để quản lý nợ quá hạn. Với những thay đổi này, ngân hàng Việt Nam có thể sẽ phải đối diện với rất nhiều khó khăn vì chưa hoàn thiện các hệ thống và công cụ quản lý rủi ro. Các ngân hàng yếu kém về năng lực tổ chức có thể bị phá sản nếu không được tái cấp vốn.

Việc thi hành các quy định mới cũng đặt ra yêu cầu đối với Ngân hàng Nhà nước trong việc phát triển cơ cấu tổ chức và nhân sự để đáp ứng các yêu cầu thực tế. Cụ thể, việc kiểm soát dựa trên đánh giá chất lượng tài sản sẽ trở thành nhiệm vụ thường xuyên của các thanh tra Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước sẽ phải có trách nhiệm xây dựng một cơ chế kiểm tra và giám sát việc thực hiện nhiệm vụ đánh giá đó. Vì chi phí phát sinh từ những thay đổi trên có thể chuyển sang khách hàng vay, nên có thể là các khoản phí tổn và chi phí ngân hàng sẽ tăng lên

* Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng thương mại (AMC)

Theo quy định Quyết định số 149/2001/QĐ-TTg ngày 5 tháng 10 năm 2001 về việc phê duyệt Đề án xử lý nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại và Quyết định số 150/2001/QĐ-TTg ngày 5/10/2001 về việc thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng thương mại của Thủ tướng Chính phủ thì phạm vi đối tượng nợ của AMC tiếp nhận xử lý là nợ tồn đọng phát sinh trước ngày 31/12/2000.

Cho đến nay, về cơ bản các AMC đã xử lý xong khoản nợ tồn đọng phát sinh trước ngày 31/12/2000. Như vậy, nếu không thay đổi về đối tượng

nợ được xử lý thì coi như AMC đã "hoàn thành sứ mệnh lịch sử". Tuy nhiên, có rất nhiều bất cập của mô hình AMC đã bộc lộ tương đối rõ nét.

Trong quá trình hoạt động vừa qua, dù về cơ sở pháp lý, ngân hàng nói chung cũng như AMC nói riêng về cơ bản đã có hành lang pháp lý tương đối đầy đủ để xử lý nợ tồn đọng (nhưng chưa thực sự có quyền lực đủ mạnh để xử lý) trong thực tế rất khó thực hiện, cụ thể:

- AMC là công ty con của ngân hàng thương mại nhà nước, được ngân hàng thương mại nhà nước cấp vốn điều lệ. Với nguồn vốn hạn chế, AMC không thể có đủ vốn để bù đắp ngay tất cả các khoản nợ và tài sản tồn đọng ngân hàng thương mại bàn giao sang. Vì vậy, trên sổ sách kế toán của ngân hàng thương mại nhà nước, số nợ tồn đọng vẫn không giảm sau khi bàn giao sang AMC. Việc xóa hay tất toán các khoản nợ tồn đọng phải chờ kết quả xử lý tài sản, từ đó dẫn đến chậm thu hồi vốn cho ngân hàng thương mại nhà nước.

- Theo quy định, mục đích hoạt động của AMC là vì lợi nhuận. Điều này mâu thuẫn với chức năng hoạt động của AMC là làm lành mạnh hóa tài chính của các ngân hàng.

Theo quy định, khi khách hàng không trả được nợ, ngân hàng thương mại, công ty AMC được toàn quyền bán tài sản bảo đảm nợ vay và bên bảo đảm có trách nhiệm bàn giao tài sản bảo đảm cho ngân hàng để xử lý. Trường hợp bên bảo đảm không tự nguyện thực hiện giao tài sản thì có quyền yêu cầu các cơ quan hữu quan trên địa bàn phối hợp cưỡng chế. Trong việc xử lý tài sản tồn đọng cũng có rất nhiều vướng mắc khác như: Xuất phát từ quyền lực của AMC rất hạn chế phạm vi xử lý của AMC nên các cơ quan nhà nước được Thủ tướng giao nhiệm vụ phối hợp cùng ngành ngân hàng xử lý nợ và tài sản tồn đọng triển khai chậm. Trong thực tế, đa số các trường hợp tài sản tồn đọng có tranh chấp, AMC không thể thực hiện được quyền của mình, mà vẫn phải khởi kiện ra Tòa và tiến độ triển khai rất chậm.

Hầu hết tài sản của doanh nghiệp nhà nước không thuộc quyền sở hữu mà chỉ có quyền sử dụng dùng thế chấp, cầm cố ngân hàng để bảo đảm nợ vay.

Khi doanh nghiệp nhà nước không trả được nợ, ngân hàng phải đưa ra xử lý tài sản và việc này khiến ngân hàng thương mại nhà nước gặp rất nhiều khó khăn vì chưa đủ cơ sở pháp lý. Một số khoản nợ đã có bản án có hiệu lực nhưng không có khả năng thi hành án hoặc quá trình thi hành án kéo dài do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan khiến cho ngân hàng không chủ động thu nợ được.

- Hoạt động chuyển nợ thành vốn góp.

Việc chuyển nợ thành vốn góp cũng là một nghiệp vụ mới đối với ngân hàng. Việc này có thể thực hiện được hay không trước hết phải có được sự chấp thuận của cơ quan chủ quản cấp trên, của chính quyền địa phương (đối với doanh nghiệp thuộc tỉnh), sau đó là doanh nghiệp đồng thuận, phù hợp với tỷ lệ tham gia góp vốn trong quy định của Ngân hàng Nhà nước, tức là không theo ý muốn của công ty AMC. Như vậy, những doanh nghiệp có nợ chuyển sang AMC nếu là doanh nghiệp nhà nước thì phải sắp xếp lại mà chủ yếu là bằng các biện pháp: cổ phần hóa, bán, giải thể, phá sản… Nếu là doanh nghiệp dân doanh thì sẽ áp dụng các biện pháp như giải thể, phá sản. Những doanh nghiệp có tổng nợ phải trả lớn hơn nhiều tổng giá trị tài sản; vốn chủ sở hữu còn không đáng kể, không có khả năng thanh toán nợ (khả năng thanh toán chung). Trong trường hợp này, nếu doanh nghiệp bị Tòa tuyên phá sản, cơ quan chủ quản quyết định bán doanh nghiệp thì ngân hàng không thể thu được hết nợ gốc, nếu giải thể theo quy định thì cơ quan ra quyết định giải thể phải thanh toán hết nợ cho ngân hàng. Thực tế thì chẳng cơ quan nào ra quyết định giải thể thanh toán hết nợ cho ngân hàng. Với hình thức cổ phần hóa thì nợ ngân hàng chỉ được chuyển thành vốn góp khi doanh nghiệp, cơ quan chủ quản doanh nghiệp "đồng ý". Trong thực tế gần 4 năm qua cho thấy, các hình thức sắp xếp lại doanh nghiệp như nêu ở trên hầu hết là trốn nợ ngân hàng. Đối với AMC nói riêng, ngân hàng nói chung chưa có chế tài đủ mạnh để yêu cầu khách nợ phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo yêu cầu của ngân hàng, trong các trường hợp này việc trả nợ hay không trả lại thuộc ý chí của doanh nghiệp mắc nợ. Do vậy, thực tế hoạt động về mảng nghiệp vụ này chưa thực hiện được.

* Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng (DATC)

Khi hỗ trợ các ngân hàng thương mại nhà nước nâng cao năng lực tài chính, Ngân hàng Nhà nước đã có công văn hướng dẫn việc bán nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại nước cho Công ty mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC). Đây là một bước xây dựng thị trường mua bán nợ, một hướng đi quan trọng để xử lý nợ xấu và nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, quá trình thực hiện cũng gặp rất nhiều khó khăn.

Trong tay DATC không có những cơ chế riêng làm công cụ xử lý nợ. DATC cũng chưa có đủ năng lực tài chính để thực hiện mua bán nợ. Và không phải khoản nợ nào cũng dễ mua hoặc bán được. Với tâm lý sợ trách nhiệm, sợ mất quyền lợi, các doanh nghiệp nhà nước lại chọn phương cách treo nợ hơn là bán đấu giá thấp cho DATC.

AMC và DATC đều giống nhau ở sự mâu thuẫn giữa chức năng mà mục tiêu hoạt động. Dù cả hai đều có nhiệm vụ là xử lý nợ xấu, một bên thì mua bán nợ, một bên thì quản lý xử lý tài sản tồn đọng mà đa phần là bất động sản. Khi hoạt động, cả AMC và DATC đều phải đảm bảo cả mục đích tối đa hóa lợi nhuận thu hồi lại phải đảm bảo được chức năng lành mạnh hóa tài chính.

Ở Việt Nam hiện nay, yêu cầu đặt ra cho DATC là phải hoạt động vừa nhằm lành mạnh hóa tài chính, thức đẩy cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, lại vừa phải theo cơ chế hạch toán kinh doanh. Do đó, để bảo toàn vốn, DATC phải cân nhắc lựa chọn những khoản nợ ít gặp rủi ro mất vốn. Do đó điều này đã làm chậm lại quá trình xử lý nợ cũng như số lượng các khoản nợ xử lý được. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy việc xử lý nợ tồn đọng thường gắn liền và phục vụ một chính sách kinh tế cụ thể tùy theo bối cảnh riêng từng quốc gia chứ không đơn thuần chỉ nhằm xử lý nợ tồn đọng của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Vì vậy mà các nước như Hàn Quốc, Malaysia không đặt vấn đề bảo toàn vốn và có lợi nhuận làm nguyên tắc hoạt động chính cho tổ chức xử lý nợ. Thay vào đó, họ chỉ yêu cầu các tổ chức xử lý nợ phải tối đa

Xem tất cả 119 trang.

Ngày đăng: 29/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí