Nếu công ty quản lý nợ chuyển vốn đã cho vay thành vốn cổ phần của doanh nghiệp thì khoản vay này được định giá lại theo giá thị trường. Nếu giá thị trường nhỏ hơn giá trị khoản vay thì phần chênh lệch được xử lý như sau:
+ Nếu khoản nợ thuộc diện cho vay chính sách thì khoản chênh lệch đó được bù đắp bằng nguồn tài chính của Chính phủ.
+ Nếu khoản nợ thuộc diện cho vay thông thường thì bù đắp khoản chênh lệch được lấy từ quỹ dự phòng rủi ro được trích của các ngân hàng thương mại
Nguồn vốn để xử lý nợ tồn đọng
- Dự phòng rủi ro được trích lập hàng năm của các ngân hàng.
- Nguồn từ ngân hàng Nhà nước đã tái cấp vốn trước đây cho các ngân hàng thương mại theo các mục tiêu như cho vay để cơ cấu lại nợ, khoanh nợ, khắc phục thiên tai, cho vay theo chỉ định của Chính phủ.
- Nguồn từ ngân hàng thế giới và IMF cho vay cơ cấu lại nợ ngân hàng thương mại nhà nước.
- Chính phủ cho phép ngân hàng Nhà nước phát hành trái phiếu có lãi suất cố định để xử lý nợ tồn đọng cho các ngân hàng.
2.1.4. Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng (DATC)
Bên cạnh những giải pháp trên, Chính phủ cũng đã tạo ra cơ chế ràng buộc và khuyến khích các ngân hàng thương mại nhà nước trong việc xử lý nhanh các tài sản tồn đọng. Việc tạo ra cơ chế ràng buộc và khuyến khích các ngân hàng thương mại nhà nước nhanh chóng xử lý nợ và tài sản tồn đọng cần phải gắn liền việc cấp vốn bổ sung cho các ngân hàng thương mại nhà nước với tiến độ bán tài sản và xử lý nợ như trên.
Có thể bạn quan tâm!
- Về Phía Ngân Hàng Thương Mại Nhà Nước
- Hiệu Quả Hoạt Động Của Các Ngân Hàng Thương Mại Nhà Nước
- Nợ Quá Hạn Do Nguyên Nhân Rủi Ro Ngoài Khả Năng Kiểm Soát
- Một Số Bất Cập Về Pháp Luật Liên Quan Đến Xử Lý Nợ Xấu
- Pháp Luật Dân Sự Và Đất Đai Liên Quan Đến Xử Lý Nợ Xấu
- Pháp Luật Về Phá Sản Doanh Nghiệp Liên Quan Đến Xử Lý Nợ Xấu
Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.
Với xu hướng xây dựng cơ chế thị trường mua bán nợ, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định 109/2003/QĐ-TTg ngày 5 tháng 6 năm 2003 về việc thành lập công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (gọi
tắt là DATC). Theo đó, các khoản nợ xấu có thể được tiếp tục theo dõi xử lý bởi DATC hoặc được bán thẳng cho DATC. Công ty DATC mua các khoản nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp, bao gồm cả tài sản và quyền sử dụng đất được sử dụng để bảo đảm cho các khoản nợ bằng các hình thức: thỏa thuận trực tiếp, đấu thầu, đấu giá hoặc theo chỉ định của Thủ tướng Chính phủ. Theo Điều 5, Quyết định 109/2003/QĐ-TTg ngày 5 tháng 6 năm 2003 về việc thành lập công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp, công ty DATC sử dụng rất nhiều phương thức để xử lý các khoản nợ và tài sản đã mua, bao gồm:
- Tổ chức đòi nợ
- Bán các khoản nợ và tài sản bằng các hình thức: thỏa thuận trực tiếp, đấu thầu, đấu giá
- Sử dụng các khoản nợ và tài sản để đầu tư dưới các hình thức: góp vốn mua cổ phần, góp vốn liên doanh, hợp tác kinh doanh theo quy định của pháp luật.
- Huy động vốn bằng hình thức phát hành trái phiếu mua nợ để mua một khoản nợ nhất định có giá trị lớn, có tài sản bảo đảm.
2.1.5. Cấp bổ sung vốn
Không chỉ có thiết chế về DATC, Chính phủ còn thực hiện lộ trình tăng vốn tự có cho các ngân hàng thương mại nhà nước. Năng lực tài chính yếu kém là một nguyên nhân quan trọng khiến cho công tác xử lý nợ xấu vấp phải khó khăn nên việc tăng vốn tự có trở nên cấp bách. Việc tăng cường khả năng về vốn tự có để từng bước phù hợp với chuẩn mực quốc tế và khu vực là rất cần thiết. Khả năng bổ sung vốn tự có của các ngân hàng thương mại nhà nước bị hạn chế do tốc độ tăng tài sản có lớn hơn khả năng sinh lời không được cải thiện. Hệ số an toàn vốn (vốn tự có/tổng tài sản Có rủi ro) nhỏ hơn hệ số an toàn của nhiều ngân hàng trong khu vực châu Á. Chính vì vậy, tăng vốn tự có là nhân tố quyết định để có thể tăng cường khả năng huy động vốn, mở rộng đầu tư
phục vụ phát triển kinh tế, vừa thực hiện tỷ lệ CAR theo chuẩn mực quốc tế. Theo quy định tại Điều 18, Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 về việc ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, giới hạn cho vay đối với một khách hàng ≤ 15% vốn tự có. Với mức vốn tự có của các ngân hàng thương mại nhà nước hiện nay thì đa phần đều không đủ sức tài trợ cho các dự án lớn như dầu khí, điện lực… Theo tính toán, để đảm bảo CAR (vốn tự có/ Tổng tài sản Có) theo chuẩn mực quốc tế (8%) thì số lượng vốn cấp bốn bổ sung cần được xử lý là 10.000 tỷ và ước tính để bảo đảm mức tăng dư nợ bình quân ở mức 18% năm thì mức vốn tối thiểu của các ngân hàng thương mại nhà nước phải đạt 23.000 tỷ vào cuối năm 2003 và đạt CAR vào 2005 thì phải cần thêm khoảng 13.000 tỷ nữa (Phụ lục 6).
Phải tăng vốn tự có cho các ngân hàng thương mại nhà nước, nhưng nguồn để tăng vốn tự có là ở đâu?
Chính phủ và Bộ tài chính cho phép ngân hàng thương mại nhà nước giữ lại phần thu thuế sử dụng vốn để tăng vốn tự có.
- Chính phủ cho phép chuyển vốn vay từ WB và IMF theo chương trình tái cơ cấu cho các ngân hàng thương mại nhà nước và cho phép các ngân hàng này không phải nộp thuế sử dụng vốn hàng năm để các ngân hàng nhận vốn vay có thể tăng vốn tự có và hoàn trả khoản vay theo các điều kiện của IMF và WB.
- Ổn định mức nộp ngân sách (lấy 2000 làm mốc) trong 3 năm để khuyến khích các ngân hàng thương mại nhà nước phấn đấu vượt chỉ tiêu lợi nhuận, cho phép lấy phần vượt để bổ sung vốn tự có.
- Khuyến khích các ngân hàng thương mại nhà nước tích cực thu hồi các khoản nợ đã khoanh để bổ sung vốn tự có.
- Cho phép tăng vốn bằng phương thức bán cổ phần ưu đãi (mà không tham gia quản lý ngân hàng) cho cán bộ công nhân viên với cổ tức cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm.
Việc tăng vốn tự có được tiến hành theo lộ trình sau: Việc cấp bổ sung vốn cho các ngân hàng thương mại nhà nước chia thành các giai đoạn trong thời gian 3 năm (2000- 2003) với các quy định ràng buộc theo kết quả thực hiện các hành động chủ chốt và các chỉ tiêu hoạt động chủ chốt đối với từng năm của các ngân hàng thương mại nhà nước như nêu trong mỗi kế hoạch cơ cấu lại các ngân hàng này. Nguồn vốn của Chính phủ để thực hiện cấp vốn bổ sung sẽ được cấp cho từng ngân hàng thương mại nhà nước theo từng năm với điều kiện các ngân hàng thương mại nhà nước đáp ứng yêu cầu về kết quả hoạt động đã được nêu trong từng kế hoạch cơ cấu lại.
2.1.6. Cơ cấu lại tổ chức và hoạt động của các ngân hàng thương mại nhà nước
- Song song với vấn đề bổ sung vốn, nghiên cứu năng lực tài chính, Nhà nước ta cũng đã đề ra chính sách cơ cấu lại tổ chức và hoạt động của các ngân hàng thương mại nhà nước hiện có theo hướng:
+ Tách bạch hoạt động cho vay chính sách và cho vay thương mại.
+ Thành lập ngân hàng phục vụ người nghèo và các đối tượng chính sách (ngân hàng chính sách xã hội) nhằm tập trung thực hiện tốt hơn các chính sách kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là chính sách xóa đói, giảm nghèo và giúp đỡ những vùng khó khăn do thiên tai gây ra, mặt khác tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại nhà nước thực sự chuyển sang kinh doanh theo nguyên tắc thị trường an toàn hiệu quả. Theo đó, ngân hàng chính sách nhận vốn để cho vay đối tượng chính sách hàng năm theo kế hoạch của Chính phủ từ Bộ Tài chính, ngân hàng chính sách tiến hành cho vay các đối tượng chính sách thông qua các ngân hàng thương mại làm ủy thác. Trường hợp khoản cho vay các đối tượng chính sách phát sinh rủi ro thì Bộ tài chính sẽ bù đắp những khoản rủi ro này. Như vậy, sau khi tách các hoạt động chính sách thì các ngân hàng thương mại nhà nước hoạt động theo nguyên tắc thị trường sẽ là ICB,VCB,VBARD,MHB. Không những thế, các ngân hàng thương mại nhà nước phải xây dựng đề án và thực hiện chương
trình phát triển cụ thể trên cơ sở cơ cấu lại bộ máy quản lý sản xuất, hệ thống chi nhánh, phát triển công nghệ để đảm bảo mục tiêu chiến lược phát triển theo yêu cầu cạnh tranh dài hạn. Cơ cấu lại hoạt động của các ngân hàng thương mại nhà nước bao gồm các nội dung chính:
(i) Quản lý tín dụng: Cơ cấu lại quản lý tín dụng nhằm mục đích hướng tới khách hàng, đáp ứng các nhu cầu của khách hàng với chất lượng cao. Việc quản lý tín dụng một cách an toàn dựa trên các quy định và nguyên tắc về hoạt động tín dụng theo chuẩn mực ngân hàng quốc tế cũng được đề ra với mục đích quản lý tín dụng.
(ii) Quản lý rủi ro: Xây dựng các thể chế quản lý rủi ro nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro hoạt động, rủi ro tỷ giá…
(iii) Quản lý vốn: Cơ cấu lại công tác quản lý vốn nhằm phục vụ tốt mục tiêu chiến lược kinh doanh đồng thời giảm chi phí huy động vốn, giảm thiểu rủi ro, tăng cường năng lực tài chính.
(v) Phát triển công nghệ: Từng bước hiện đại hóa công nghệ ngân hàng.
(vi) Hệ thống kế toán kiểm toán: Chuyển đổi hệ thống kế toán Việt Nam sang hệ thống kế toán quốc tế, làm cho hệ thống kế toán phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Đánh giá đúng thực trạng tài chính - ngân hàng đồng thời xây dựng các thiết chế an toàn cho hoạt động ngân hàng phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
(vii) Xây dựng chiến lược đào tạo và sử dụng cán bộ tạo động lực khuyến khích người lao động. Như chúng ta đã biết, đào tạo cán bộ ngân hàng là vấn đề được coi trọng, có tính nền tảng trong chiến lược phát triển ngân hàng. Yêu cầu của công tác quản lý nhân lực và đào tạo là xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và viên chức ngân hàng có đủ đạo đức và kỹ năng cần thiết để thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển mới. Việc bổ sung, sửa đổi các quy chế về tuyển dụng sa thải viên chức theo yêu cầu quản lý mới, trên cơ sở đó có những kiến nghị cụ thể với Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ sửa đổi, bổ
sung các quy định pháp lý nhằm nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về nhân sự, tiền lương của các ngân hàng..
- Xây dựng hệ thống khuyến khích vật chất và tinh thần phù hợp với yêu cầu kinh doanh, cạnh tranh và mục tiêu lợi nhuận.
- Xây dựng kế hoạch đào tạo và đào tạo lại cán bộ, tập trung trước hết vào các lĩnh vực chủ yếu của tái cơ cấu như: nghiệp vụ quản lý chiến lược, quản lý rủi ro, kế toán, kiểm toán, quản lý tín dụng và dịch vụ mới.
2.1.7. Quỹ dự phòng rủi ro
Theo thông lệ quốc tế, muốn xóa nợ xấu cần phải có nguồn tiền nhất định. Ở Việt Nam, tiền dùng để xử lý nợ là quỹ dự phòng rủi ro của các ngân hàng thương mại nhà nước hoặc từ nguồn ngân sách nhà nước. Quỹ dự phòng rủi ro của ngân hàng thương mại hoàn thành hàng năm bằng cách trích một tỷ lệ nhất định trên lợi nhuận sau khi đã đánh thuế. Theo nhiều chuyên gia ngân hàng, những quy định này là chưa đủ bao quát đối với các ngân hàng thương mại nhà nước. Vì vậy ngày 22/4/2005, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước tiếp tục ra Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng. Theo đó, ngân hàng thương mại nhà nước phải trích lập dự phòng chung và dự phòng cụ thể để xử lý rủi ro. Theo khoản 2, Điều 2, Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, dự phòng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của tổ chức tín dụng không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng. Như vậy, giải pháp tổng thể của ngành ngân hàng là tổng hợp, loại trừ và ngăn ngừa nợ xấu tái phát sinh. Rõ ràng, trong xử lý nợ xấu, không chỉ riêng ngành ngân hàng mà Chính phủ cũng như các cơ quan cấp Bộ, ngành khác cũng đã cùng hỗ trợ, góp sức theo tư cách là người điều phối các cơ quan chức năng để giải quyết.
2.2. KẾT QUẢ XỬ LÝ NỢ XẤU
Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, sau 3 năm thực hiện đề án, tỷ lệ nợ xấu đã giảm từ 14,3% năm 1999 xuống còn 4,14% năm 2004. Tỷ lệ an toàn vốn tăng từ 2,8% năm 2000 lên 4,39% năm 2004. Các ngân hàng thương mại nhà nước đã tích cực đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động kinh doanh, thực hiện chỉ thị số 01 ngày 22/4/2003 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về đẩy nhanh tiến độ thực hiện Đề án tái cơ cấu nhằm đảm bảo lộ trình cải cách đã cam kết giữa Chính phủ Việt Nam và IMF.
Các ngân hàng thương mại nhà nước lớn đã xử lý 92% số nợ đọng. Trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2005, các ngân hàng thương mại nhà nước và chi nhánh đã xử lý được 8.217 tỷ đồng nợ xấu, trong đó số nợ do Bộ Tài chính đề nghị Chính phủ quyết định cho xóa nợ là 2.372 tỷ, nợ gốc do sử dụng dự phòng rủi ro phù hợp với quy chế tài chính hiện hành là
3.211 tỷ tiền nợ đọng của khách hàng. Với nhiều biện pháp linh hoạt khác nhau, tình hình tài chính của ngân hàng đã trở nên lành mạnh minh bạch hơn. Tại Hà Nội, ước tính đến cuối tháng 6/2005, tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ cho vay của các ngân hàng thương mại trên địa bàn là 2%, trong đó ở các ngân hàng thương mại nhà nước có tỷ lệ tương ứng là 1,9 - 2,2% tùy theo ngân hàng
ICB được coi là ngân hàng thành công nhất trong xử lý vốn nợ xấu. Đây là ngân hàng thương mại nhà nước có số vốn nợ đọng lớn nhất liên quan đến các vụ án Epco - Minh Phụng, Tamexco và nhiều vụ án lớn khác. Với tổng số nợ lên tới gần 10000 tỷ đồng, trải qua gần chục năm, với nhiều biện pháp quyết liệt, ICB Việt Nam đã cơ bản xử lý số nợ đọng đó.
Sau 4 năm tập trung triển khai đề án xử lý nợ tồn đọng, đến 31/12/2004, ICB đã đạt kết quả sau:
- Tổng số nợ đọng đã xử lý đạt 94% số nợ tồn đọng theo đề án, trong đó:
+ Thu từ bán và khai thác tài sản đạt 28% (riêng nhóm nợ Epco Minh Phụng đã xử lý tài sản thu nợ được 1.538 tỷ).
+ Dùng nguồn dự phòng rủi ro 26%.
+ Nhà nước hỗ trợ xử lý 40%.
- Phân theo nhóm nợ:
+ Đối với nợ nhóm I (nợ có tài sản bảo đảm): Xử lý đạt 94% số nợ tồn đọng nhóm 1 theo đề án và chiếm 72% tổng số nợ được xử lý.
+ Nợ nhóm II: Toàn bộ nợ đọng nhóm 2 đã được xử lý, chiếm 12% số nợ đã xử lý.
+ Nợ nhóm III: Xử lý đạt 93% số nợ đọng nhóm 3 theo đề án và chiếm 16% số nợ đã xử lý.
Trong 6 tháng đầu năm 2005, ICB đã xử lý thu hồi nợ tồn đọng đạt 200 tỷ đồng, chủ yếu thu từ việc bán và khai thác tài sản.
Tăng vốn điều lệ:
+ ICB được cấp 2200 tỷ đồng vốn điều lệ dưới dạng trái phiếu đặc biệt. Riêng tại thời điểm 31/12/2004 tính cả nguồn vốn tự bổ sung và vốn khác của ICB đạt 4149 tỷ (vốn và các quỹ) nâng hệ số an toàn vốn đạt 4,2% trên tổng tài sản Có.
ICB đã làm tốt rất nhiều việc để có được thành công như trên:
- Đối với nợ nhóm 1 (nợ có tài sản bảo đảm): Tiến hành rà soát, phân tích, đánh giá thực trạng từng khoản nợ, xác định nguồn thu nợ, khả năng và biện pháp thu nợ, phối hợp các cơ quan, chính quyền địa phương và các cơ quan pháp luật trong việc xử lý phát mại, bán đấu giá tài sản. ICB đã thành lập một AMC từ tháng 9/2000 với chức năng nhiệm vụ là tiếp nhận tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh của những khoản nợ khó đòi thuộc hệ thống ICB để quản lý khai thác, cho thuê, phát mại, bán đấu giá tài sản. Trọng tâm là tập trung tiếp nhận quản lý và xử lý bán, khai thác tài sản trong vụ án Epco Minh Phụng, theo quyết định của Tòa án giao ICB để thu hồi nợ.
- Hoạt động của công ty AMC của ICB: