Pháp Luật Dân Sự Và Đất Đai Liên Quan Đến Xử Lý Nợ Xấu

hoá giá trị thu hồi để giảm thiểu gánh nặng ngân sách mà Chính phủ bỏ ra để hỗ trợ cho chương trình xử lý nợ tồn đọng. Vậy nên quy định pháp luật Việt Nam về mục tiêu và hoạt động của DATC là chưa hoàn toàn hợp lý.

Ở Việt Nam, mối quan hệ mua bán nợ giữa DATC với các thiết chế tài chính, giữa DATC với tổ chức kinh tế và cá nhân hiện chưa được điều chỉnh, hầu hết thiếu quy định pháp lý, thậm chí chồng chéo mâu thuẫn nhau. Các quy định áp dụng cho DATC hầu như không tạo quyền ưu tiên đặc biệt trong việc tiếp cận và khai thác thông tin đánh giá khoản nợ nên đã gây ra không ít khó khăn trong việc mua và xử lý nợ. Trong quá trình xử lý nợ, có trường hợp ngân hàng đã mời DATC cùng giải quyết một món nợ, sau khi xem xong, DATC yêu cầu làm một công văn đề nghị bán nợ. Do chưa có hệ thống thẩm định nợ xấu nên sau đó, chi nhánh nhận được giá chào mua rất thấp chỉ khoảng 20% giá món nợ đó và ngân hàng lại rất băn khoăn không biết sẽ bán cho DATC theo tỷ lệ nào. Có thể kết luận rằng, DATC xử lý nợ mang nặng tính thủ tục, chưa có "hơi thở" thị trường.

2.3.2. Pháp luật dân sự và đất đai liên quan đến xử lý nợ xấu

Phương thức bán tài sản bảo đảm: Bộ luật Dân sự chỉ trao quyền cho bên nhận bảo đảm được quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bán đấu giá nếu các bên không có thỏa thuận khác. Nếu tổ chức tín dụng tự bán là trái với pháp luật dân sự và thậm chí chưa có văn bản liên quan đến vấn đề xử lý tài sản, trong đó có các quy định về hồ sơ, thủ tục, năng lực hành vi người chuyển nhượng tài sản trong thủ tục chuyển quyền sở hữu, công chứng... Điều này khiến cho tổ chức tín dụng gặp vướng mắc khi xử lý tài sản.

Một bất cập khác là phương thức nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm. Ngân hàng thương mại nhà nước sử dụng phương thức này để giải quyết nợ xấu và tài sản bảo đảm nợ tồn đọng hoặc những tài sản khó xử lý, tài sản đặc thù. Tuy nhiên, việc tổ chức tín dụng nhận tài sản mà tài sản đó chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng cho chính tổ chức tín dụng sẽ tác động tới giới hạn tỉ lệ an toàn trong hoạt

động của loại hình doanh nghiệp này, trong đó việc đầu tư vào tài sản cố định của một tổ chức tín dụng luôn ≤ 50% vốn tự có. Quy định này xung đột với quy định tại Bộ luật Dân sự về việc quyền sở hữu của chủ tài sản bị xử lý chỉ kết thúc khi việc xử lý tài sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Có quan điểm cho rằng, khi ngân hàng thương mại nhà nước thực hiện phương thức này, tài sản sẽ được xác định giá trị để bù trừ nghĩa vụ. Trường hợp giá trị tài sản được định giá không đủ để thực hiện nghĩa vụ, trường hợp có chênh lệch thừa thì phần chênh lệch đó sẽ thuộc về bên bảo đảm. Nhưng quy định pháp luật về vấn đề này có thể được hiểu theo cách: Việc xác định giá trị tài sản tại thời điểm cấn trừ không có ý nghĩa, bên bảo đảm sẽ có quyền lợi và nghĩa vụ đến khi tài sản bảo đảm được bán để thu hồi nợ. Số tài sản có giá trị lớn hơn giá trị xác định tại bản án vẫn được coi là tài sản của bên thế chấp, cầm cố mà không phải là tài sản của ngân hàng thương mại. Nếu hiểu theo cách này, đương nhiên sẽ gây bất lợi cho chủ nợ là ngân hàng thương mại nhà nước.

Thanh toán thu nợ từ việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng thương mại nhà nước hoặc bên thứ ba xử lý tài sản bảo đảm sẽ bị ảnh hưởng khi không xác định được các loại chi phí xử lý tài sản do pháp luật không xác định rõ "chi phí hợp lý" phát sinh. Thậm chí, cần phải nộp ngân sách nhà nước các loại thuế, phí, lệ phí được ưu tiên thanh toán trước khoản nợ được bảo đảm nhưng pháp luật không xác định rõ loại thuế, phí, lệ phí này.

Việc xử lý tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh của các doanh nghiệp nhà nước: Một số tài sản quan trọng hoặc dây chuyền sản xuất chính phải có sự đồng ý của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên. Tuy vậy, khi ngân hàng thương mại nhà nước xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp nhà nước, cơ quan tài chính của một số địa phương yêu cầu phải có sự chấp thuận của cơ quan quản lý, điều này gây ảnh hưởng tới tiến độ và quy trình xử lý tài sản, vì các thủ tục xin phép rất rườm rà và phức tạp.

Với mục đích hoàn thiện pháp luật về đất đai, trong thời gian vừa qua, các quy định của pháp luật về đất đai được sửa đổi, bổ sung liên tục. Việc sửa

đổi, bổ sung này đã tạo điều kiện tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc nảy sinh trên thực tế (bao gồm cả các vướng mắc liên quan tới việc nhận thế chấp giá trị quyền sử dụng đất như các quy định cho phép các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam được nhận thế chấp giá trị quyền sử dụng đất, cho phép Tổ chức tín dụng và khách hàng tự thỏa thuận về giá trị thế chấp khi nhận thế chấp giá trị quyền sử dụng đất… Tuy nhiên, việc pháp luật về đất đai thay đổi liên tục cũng làm cho môi trường pháp lý không ổn định và tiềm ẩn những rủi ro đáng kể cho hoạt động tín dụng ngân hàng. Một trong những điểm thay đổi đáng lưu ý là quy định về điều kiện nhận thế chấp giá trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.

Luật Đất đai 2003 quy định: Hộ gia đình và cá nhân được Nhà nước giao đất không phải là đất thuê có quyền thế chấp, bảo lãnh tại các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam, để vay vốn sản xuất kinh doanh. Ước tính, một số hộ cần số tiền vay vài trăm triệu đồng. Nếu phải vay bên ngoài, thủ tục có dễ hơn nhưng lãi suất quá cao. Trong khi đó, muốn vay ngân hàng thì phải có tài sản bảo đảm. Tài sản bảo đảm có thể là của chính khách hàng, của bên thứ ba hoặc tài sản hình thành trong tương lai. Hiện nay, phần lớn tài sản bảo đảm của khách hàng chủ yếu là quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với đất (quyền sử dụng nhà ở). Có một điều bất hợp lý là, khi nhận thế chấp tài sản quyền sử dụng đất ở và quyền sử dụng nhà ở, các tổ chức tín dụng thường áp dụng theo khung giá quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố để xác định mức cho vay. Chính vì vậy, giá trị tài sản bảo đảm của khách hàng thường không tương xứng với giá trị thực, nhất là quyền sử dụng đất ở. Bởi, giá trị quyền sử dụng đất ở mà Ủy ban nhân dân tỉnh thành phố đưa ra chỉ để áp dụng tính thu thuế chứ không phải để bán và trao đổi trên thị trường

Mặc dù các ngân hàng thương mại đã có những quy định về phương pháp xác định giá trị tài sản bảo đảm là hội đất ở để giúp người dân có cơ hội vay được nhiều vốn hơn như việc xác định theo thỏa thuận giữa ngân hàng cho vay và bên bảo đảm nhưng phải thấp hơn giá đất thực tế chuyển nhượng

Pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam - 9

trên thị trường địa phương tại thời điểm định giá; không vượt quá khung giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố quy định hoặc mức tối đa ≤ 70% giá đất thực tế chuyển nhượng trên thị trường nếu cao hơn giá ghi trong khung giá đất của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố nơi có đất. Nhu cầu về vốn cho khách hàng vẫn chưa đáp ứng đủ vì giá trị tài sản được quy định thấp hơn nhiều so với giá trị thực tế của nó.

Nếu như trước đây, các ngân hàng thương mại trong đó có ngân hàng thương mại nhà nước khi giải quyết khách hàng vay vốn luôn đặt tính hiệu quả của dự án /phương án lên hàng đầu và xem đó là điều kiện tiên quyết để cán bộ tín dụng thẩm định trình duyệt cho vay vốn. Hiện nay, nhiều năm thực hiện, việc lấy dự án/phương án làm căn cứ cho vay vốn đã bộc lộ những khó khăn nhất định, vì có một số ít doanh nghiệp và cá nhân khi xây dựng dự án/phương án đã không trung thực. Họ luôn đưa ra những thông tin không minh bạch làm ngân hàng rất khó xác định cho vay vốn. Vì thế, các ngân hàng thương mại ngoài việc xem xét dự án/phương án còn ràng buộc khách hàng vay vốn phải có thêm tài sản bảo đảm.

Ví dụ: Quy định về phương pháp xác định giá trị tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất ở hiện nay của ICB không ổn định. Có lúc quy định giá trị quyền sử dụng đất ở thế chấp được xác định theo thỏa thuận giữa ngân hàng cho vay và bên bảo đảm nhưng phải thấp hơn giá thực tế chuyển nhượng trên thị trường địa phương tại thời điểm định giá / định giá lại nhưng không vượt quá khung giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố quy định. Hoặc nếu chi nhánh ngân hàng xây dựng khung giá đất thì không lớn hơn 2 lần giá của loại đất, vị trí đất trong khung giá do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố quy định và thấp hơn giá chuyển nhượng thực tế trên thị trường địa phương tại thời điểm định giá thế chấp/định giá lại với mức:

Thứ nhất, mức tối đa bằng với mức giá đất thực tế chuyển nhượng trên thị trường nếu thấp hơn hoặc bằng với giá ghi trong khung giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố nơi có đất quy định.

Thứ hai, mức tối đa ≤ 70% giá đất thực tế chuyển nhượng trên thị trường nếu cao hơn giá ghi trong khung giá đất của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố nơi có đất.

Nếu áp dụng theo cách 1 thì không thể cho vay vốn được, vì giá trị quyền sử dụng đất mà Ủy ban nhân dân các địa phương đưa ra chỉ để áp dụng tính thuế chứ không quy định để bán, để chuyển nhượng trên thị trường. Còn áp dụng theo cách 2, việc thực hiện trở nên khó khăn vì các tỉnh nhỏ chưa có dịch vụ nhà đất. Do đó, các ngân hàng ở những tỉnh này không thể có khung giá thị trường để áp dụng tính đúng 70% theo quy định được. Nếu thuê cơ quan chuyên môn thì do có những quy định ràng buộc bởi trách nhiệm về cách định giá của họ, sẽ khó có cơ quan nào đứng ra nhận xây dựng khung giá đất cho ngân hàng. Như vậy, quy định đưa đến cách hiểu không thống nhất, khiến cho việc đầu tư, cho vay vốn trở nên khó khăn. Và cũng không thể quy định cho phép các chi nhánh tự xây dựng khung giá đất để xác định giá trị tài sản bảo đảm làm căn cứ cho vay, vì như vậy sẽ chồng chéo. Các chi nhánh không phải là pháp nhân, do đó không được phép tự đưa ra các quy định. Vậy nên, việc áp dụng khung giá đất làm căn cứ xác định mức cho vay trở nên rất cần thiết.

2.3.3. Luật Doanh nghiệp nhà nước liên quan đến xử lý nợ xấu

Ban hành quy phạm pháp luật cho hoạt động của các doanh nghiệp là vai trò cơ bản của nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Mặt khác, nhà nước còn đóng vai trò là nhà đầu tư tại các doanh nghiệp. Nhưng trong hệ thống văn bản pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay chưa có sự tách bạch về vai trò quản lý nhà nước và vai trò của chủ sở hữu nhà nước đối với vốn và tài sản nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp. Chúng ta khó có thể xác định được tính chất của việc ban hành là thực hiện chức năng quản lý nhà nước hay chức năng của chủ sở hữu. Thực tế đã có sự mất cân đối về số lượng và nội dung quy phạm pháp luật giữa công ty nhà nước với các doanh nghiệp khác. Hệ thống quy phạm pháp luật đối với các doanh nghiệp nhà nước được ban hành chi tiết hơn các văn bản về loại hình doanh nghiệp khác, khiến cho nhiều

doanh nghiệp khác vận dụng luôn loại văn bản này đối với hoạt động của mình. Dù đây là văn bản hướng dẫn của chủ sở hữu nhà nước về công tác tổ chức cán bộ và tiền lương trong các doanh nghiệp nhà nước nhưng các doanh nghiệp khác vẫn áp dụng.

Tư cách pháp nhân của doanh nghiệp nhà nước đã được nêu rõ tại Luật doanh nghiệp nhà nước: "Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý". Như vậy, theo quy định của Bộ luật Dân sự, với tư cách là một pháp nhân, doanh nghiệp nhà nước phải có tài sản riêng, tách biệt khỏi phần tài sản của chủ sở hữu doanh nghiệp. Hay nói cách khác, doanh nghiệp nhà nước phải có quyền sở hữu đối với các tài sản đã được chủ sở hữu giao khi thành lập doanh nghiệp và chịu trách nhiệm hữu hạn về các nghĩa vụ tài chính của mình trong phạm vi tài sản của doanh nghiệp. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng, khẳng định sự tồn tại độc lập, năng lực chịu trách nhiệm về tài sản của doanh nghiệp nhà nước khi tham gia vào quan hệ dân sự, kinh tế (bao gồm cả quan hệ tín dụng, ngân hàng). Nhưng, khi cụ thể hóa quyền sở hữu của doanh nghiệp nhà nước đối với các tài sản của chính doanh nghiệp nhà nước, pháp luật về doanh nghiệp nhà nước đã thể hiện nhiều điểm bất cập.

Doanh nghiệp nhà nước chỉ có quyền "quản lý, sử dụng vốn" và các tài sản khác do Nhà nước giao thay vì có quyền sở hữu đối với tài sản của mình như các pháp nhân khác. Quy định này không phù hợp với chính quy định về tư cách pháp nhân của doanh nghiệp nhà nước, tự chủ tài chính, chịu trách nhiệm hữu hạn của doanh nghiệp nhà nước và làm cho doanh nghiệp nhà nước "dường như" chưa có tư cách pháp nhân đầy đủ, xét theo tiêu chí quyền sở hữu về tài sản của doanh nghiệp. Đây là điểm sẽ gây hạn chế cho doanh nghiệp nhà nước trong giao dịch với các ngân hàng thương mại nhà nước.

Thủ tục cầm cố, thế chấp tài sản của doanh nghiệp nhà nước để vay vốn ngân hàng còn mang nặng tính xin cho. Hạn chế này thể hiện tại quy định

buộc doanh nghiệp nhà nước phải được cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp cho phép khi thế chấp các tài sản là toàn bộ dây chuyền công nghệ chính của doanh nghiệp theo quy định của cơ quan quản lý ngành kinh tế kĩ thuật. Trong khi đó, cho đến nay, các cơ quan quản lý ngành kinh tế kĩ thuật vẫn chưa ban hành các quy định xác định " toàn bộ dây chuyền công nghệ chính của doanh nghiệp nhà nước" trong từng ngành là những tài sản nào? Rủi ro cho ngân hàng đến khi xử lý các tài sản bảo đảm của doanh nghiệp nhà nước trong trường hợp việc thế chấp bị vô hiệu do các tài sản này được xác định là "toàn bộ dây chuyền công nghệ chính của doanh nghiệp" tại thời điểm xử lý tài sản, doanh nghiệp chưa được phép thế chấp của cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp.

Vốn điều lệ của doanh nghiệp nhà nước: Vốn điều lệ của doanh nghiệp nhà nước là số vốn thuộc sở hữu nhà nước được ghi trong điều lệ của doanh nghiệp. Khi thành lập doanh nghiệp nhà nước, nhà nước đầu tư "toàn bộ hoặc một phần" vốn điều lệ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều doanh nghiệp nhà nước chỉ được đầu tư một phần vốn điều lệ. Trong trường hợp này, năng lực chịu trách nhiệm về tài sản của doanh nghiệp nhà nước thấp hơn mức vốn được ghi trong Điều lệ. Hay nói cách khác, Nhà nước chưa hoàn thành nghĩa vụ góp vốn theo cam kết. Điều này đồng nghĩa với rủi ro cao hơn các bạn hàng của doanh nghiệp (gồm cả các ngân hàng cho vay).

- Vấn đề minh bạch hóa của doanh nghiệp nhà nước:

Ban kiểm soát do Hội đồng quản trị thành lập, thực hiện nhiệm vụ do Hội đồng quản trị giao, báo cáo và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị. Như vậy, Ban kiểm soát không thể giám sát được hoạt động của Hội đồng quản trị. Hình thức giám sát công ty nhà nước từ bên ngoài thông qua Bộ quản lý ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh và Bộ Tài chính là chưa hiệu quả vì giám sát này chỉ liên quan đến giám sát sử dụng vốn và mục tiêu lợi nhuận mà chưa coi trọng giám sát các mục tiêu khác.

2.3.4. Luật Doanh nghiệp liên quan đến xử lý nợ xấu

Trước đây, theo Luật công ty, người đại diện theo pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần là Giám đốc công ty. Theo Luật doanh nghiệp mới, người đại diện theo pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần chỉ là Giám đốc công ty, trong trường hợp điều lệ công ty không có quy định Chủ tịch Hội đồng thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, chủ tịch Hội đồng quản trị công ty cổ phần là người đại diện theo pháp luật. Hay nói cách khác, người đại diện theo pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có thể là chủ tịch Hội đồng thành viên, chủ tịch Hội đồng quản trị nếu Điều lệ công ty quy định hoặc Giám đốc công ty trong trường hợp còn lại. Như vậy, khi kí kết các hợp đồng tín dụng, bảo lãnh với các loại hình doanh nghiệp này, ngân hàng bắt buộc phải kiểm tra tư cách đại diện của người kí kết. Trường hợp điều lệ công ty có quy định người đại diện theo pháp luật của công ty là chủ tịch Hội đồng quản trị, chủ tịch Hội đồng thành viên thì giám đốc công ty chỉ có thẩm quyền kí hợp đồng với tổ chức tín dụng khi có văn bản ủy quyền của chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc chủ tịch Hội đồng thành viên.

- Thẩm quyền kí hợp đồng lớn với tổ chức tín dụng

Một trong những thay đổi quan trọng của Luật Doanh nghiệp so với Luật công ty trước đây là quy định về thẩm quyền thông qua các hợp đồng có giá trị lớn của Hội đồng thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, Hội đồng quản trị của công ty cổ phần. Nếu không có văn bản chấp thuận của Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, các hợp đồng có giá trị lớn của công ty dù được người đại diện theo pháp luật của công ty kí kết vẫn bị vô hiệu. Do vậy, để bảo đảm hợp đồng không bị vô hiệu, quy định này buộc các Tổ chức tín dụng ngoài việc kiểm tra tư cách đại diện cho doanh nghiệp của người kí hợp đồng, còn phải kiểm tra thêm Điều lệ của công ty để xác định giá trị của hợp đồng phải có sự chấp thuận của Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên và văn bản chấp thuận của Hội đồng quản trị công ty cổ phần, Hội đồng thành viên công

Xem tất cả 119 trang.

Ngày đăng: 29/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí