Một Số Giải Pháp Nhằm Nâng Cao Hiệu Quả Xử Lý Nợ Quá Hạn Trong Hoạt Động Cho Vay Của Ngân Hàng Thương Mại Ở Việt Nam

Ở khối NHTM cổ phần tư nhân, dù số lượng nợ xấu ít hơn nhưng cũng không nằm ngoài xu hướng tăng lên. NHTM cổ phần Á Châu (ACB), một trong những nhà băng có tỉ lệ nợ xấu trong năm 2011 ở mức thấp thì sau 3 tháng đầu năm cũng đã ghi nhận sự sụt giảm khá mạnh chất lượng các khoản cho vay khách hàng. Cụ thể, theo thuyết minh báo cáo tài chính giữa niên độ đề ngày 20/4/2012, tổng dự nợ cho vay khách hàng của ACB chỉ tăng chưa tới 1,8% nhưng nợ xấu lại tăng tới 38,8%, từ 873,4 tỷ đồng của cuối năm 2011, lên 1.212,5 tỷ đồng. Tại Đại hội cổ đông ngày 30/3/2012, Tổng Giám đốc ACB Lý Xuân Hải cho biết khoảng 60% nợ xấu của Ngân hàng có liên quan đến bất động sản.


Tình hình nợ xấu tăng cũng được ghi nhận ở một số ngân hàng khác như Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam - Eximbank (tăng 14,5%, từ 1.202,9 tỷ đồng lên 1.377,2 tỷ đồng). Nợ quá hạn của NH chiếm 4% tổng dư nợ, trong đó, nợ có khả năng mất vốn chiếm 0,87% tổng dư nợ cho vay khách hàng. Vì thế, lợi nhuận trước và sau thuế của EIB chỉ tăng hơn 1,5% so với cùng kỳ. Lũy kế, lợi nhuận trước thuế 6 tháng đầu năm nay của Eximbank đạt 1.857 tỷ đồng, tăng 9,9% so với 6 tháng đầu năm 2011; lợi nhuận sau thuế đạt 1.391 tỷ đồng.[46] Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội(SHB) (tăng 18,17%, lên 769,8 tỷ đồng). Trong đó, đáng chú ý là dù dư nợ giảm tới hơn 5.000 tỷ đồng so với đầu năm nhưng lại ghi nhận thêm hơn 174 tỷ đồng nợ xấu. [47] . “Báo động đỏ” nợ xấu toàn ngành theo Thanh tra NH Nhà nước công bố ngày 31/3/2012 là 202.000 tỷ đồng (chiếm 8,6% dư nợ).


Từ những kết quả công bố trên của các NHTM có thể thấy, NQH của các NH đang gia tăng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi nhuận của NH. Bởi vậy, pháp luật hiện nay cần phải hoàn thiện hơn nữa để hạn chế tình trạng NQH đang diễn biến khá phức tạp trong hệ thống NHTM ở Việt Nam.

3.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về xử lý nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại ở Việt Nam Có thể thấy rằng, trong giai đoạn hiện nay các quy định của Pháp luật nói chung và Pháp luật điều chính trong lĩnh vực hoạt động NH chuyên biệt, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và phát triển của nền kinh tế. Mặc dù chúng ta đã xác định rõ vai trò của các NHTM trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước, song các thiết chế để bảo đảm cho hoạt động của các NHTM được an toàn, bền vững và hiệu quả lại chưa được xây dựng song hành, đặc biệt là các quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động của NHTM, trong đó có Pháp luật về xử lý NQH. Để nâng cao hiệu quả hoạt động và bảo đảm an toàn minh bạch trong quá trình kinh doanh, đồng thời phù hợp với thông lệ Quốc tế thì Pháp luật về xử lý NQH trong hoạt động cho vay của NHTM ở Việt Nam cần được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện theo những tiêu chí cơ bản sau:


Pháp luật cần đề cao tính độc lập, tự chủ, tự do thoả thuận và tự chịu trách nhiệm về các quyết định của mỗi chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng Tín dụng. Để tạo điều kiên cho các bên khách hàng vay và NHTM có thể hoàn toàn chủ động trong các quyết định của mình như: NH có quyền lựa chọn khách hàng vay, tài sản bảo đảm, phương thức xử lý tài sản bảo đảm nếu trong trường hợp khách hàng vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ vay. Hoặc trong trường hợp khi khách hàng vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ, thì họ có quyền lựa chọn tài sản nào dùng để bảo đảm nghĩa vụ cho khoản vay, thời hạn trả nợ…Trên thực tế nhiều trường hợp các bên không tôn trọng sự thoả thuận với nhau và phải đưa vụ việc ra tòa giải quyết.

Pháp luật về xử lý NQH trong hoạt động cho vay của NHTM, phải đảm bảo tính đồng bộ với các văn bản Pháp luật khác liên quan đến việc xử lý NQH và phải được đặt trong tính hệ thống hóa của hệ thống Pháp luật trên

nền tảng chung là Bộ Luật Dân sự và Luật NH Nhà nước Việt Nam. Có thể kể đến như chính sách cho vay, các quy định liên quan đến thu hồi khoản vay.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.

Pháp luật về xử lý NQH cần nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện về thị trường mua, bán nợ cũng như việc thành lập công ty chuyên mua bán nợ xấu. Quy định bổ sung các biện pháp xử lý NQH và tiến tới quy định bắt buộc đối với Bảo hiểm Tín dụng.

Pháp luật về xử lý NQH cần sửa đổi theo hướng phù hợp với thông lệ Quốc tế trong hoạt động NH. Việc sửa đổi pháp luật về xử lý NQH theo thông lệ Quốc tế là yếu tố tất yếu để đảm bảo yêu cầu hội nhập, cạnh tranh, tránh nguy cơ tụt hậu. Hiện nay các NHTM Việt Nam đang tiến tới phân loại nợ theo chuẩn mực quốc tế, có nhiều chiến lược thu hút ngoại lực (vốn, công nghệ kỹ thuật, quản trị nhân lực trình độ cao) thông qua việc bán một phần vốn cho các đối tác chiến lược nước ngoài, hợp tác liên kết với các hãng lớn của nước ngoài nhằm mở rộng quy mô nâng cao sức cạnh tranh và gia tăng giá trị của mình. Kiện toàn quy định pháp luật phải đồng nghĩa với việc kiện toàn nhân lực, xây dựng quy chế quy định về trình độ và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng, để giảm thiểu tối đa những thiệt hại cho toàn ngành NH. Đó là xu thế tất yếu trong quá trình hội nhập của nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành NH Việt Nam nói riêng.

Pháp luật về xử lý nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam - 12

3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lý nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam

Trong thực tế, mặc dù đã được Pháp luật quy định song khi triển khai việc thực thi các quy định của Pháp luật về xử lý NQH đang gặp nhiều bất cập, đã và đang gây không ít khó khăn cho các NH trong việc thu hồi các khoản nợ vay quá hạn, mà khách hàng vay không trả được. Để nâng cao hiệu quả hoạt động và đảm bảo an toàn, minh bạch trong quá trình kinh doanh, đồng thời phù hợp với thông lệ Quốc tế, Pháp luật về xử lý NQH trong hoạt

động cho vay của NHTM cần được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện theo những tiêu chí cơ bản sau:

3.3.1. Thực hiện đúng quy trình Tín dụng khi cho vay

Trong quá trình xem xét cho vay, NH cần thực hiện đúng quy trình Tín dụng như: tiếp nhận và hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn- Thẩm định các điều kiện vay vốn; Trình duyệt cho vay và ký Hợp đồng Tín dụng; Giải ngân và kiểm tra giám sát tiền vay; Thu nợ lãi, nợ gốc và xử lý những phát sinh; Thanh lý hợp đồng tín dụng và giải chấp tài sản bảo đảm. Trong đó khâu thẩm định và xét duyệt rất quan trọng. Việc xét duyệt cho vay phải đảm bảo khả năng thu hồi vốn cao, phải kiểm tra, đánh giá trước, trong và sau khi cho vay tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng.

3.3.2. Kiểm tra giám sát khách hàng vay vốn, theo dõi rủi ro có thể xảy ra đối với các khoản cho vay

Khi cho vay các NHTM cần tiếp tục kiểm soát mục đích sử dụng các khoản vay của DN, có chứng từ vay vốn rõ ràng, để từ đó có những đánh giá sơ bộ về hiệu quả sử dụng vốn vay, cũng như duy trì các kênh liên lạc giữa NH và DN để có thông tin trao đổi kịp thời. Đồng thời, cần kiểm tra các nguồn thông tin khác nhau thu thập được về khách hàng. Trên cơ sở đó, thường xuyên bổ xung thông tin vào hồ sơ khách hàng, để phản ánh đúng và kịp thời thực trạng của khách hàng, giúp NH chủ động hơn trong quan hệ với khách hàng

3.3.3. Sửa đổi các quy định về phân loại nợ

Theo quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro Tín dụng trong hoạt động NH, ban hành kèm theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN, thì việc phân loại nợ căn cứ vào tiêu chí thời gian (thời hạn quá hạn) sang những tiêu chí dựa trên những cơ sở rủi ro khác, ví dụ như mặc dù một khoản tín dụng tuy chưa đến hạn, song nếu TCTD xác định được rằng người đi vay đã hoàn toàn mất khả năng thanh toán, mà TCTD lại chưa đưa ra biện pháp nào để ngăn chặn, thì dù khoản tín dụng này chưa đến hạn

thanh toán NH vẫn gặp rủi ro mất vốn. Đó là chưa kể, tuy chưa đến hạn thanh toán song đối với các khoản tín dụng khác nhau thì khả năng thanh toán khi đến hạn của chúng là cũng khác nhau. Hoặc chưa đến hạn thanh toán nhưng người vay sử dụng vốn sai mục đích, hoặc khách hàng vay chết hoặc mất tích…những trường hợp như vậy NH khó có thể thu hồi được khoản cho vay của mình.

Cần quan niệm NQH theo chuẩn mực quốc tế. NHNN cần kiên quyết, sát xao trong việc yêu cầu các NH phải đồng loạt thực hiện phân loại nợ theo Điều 7 thay vì theo Điều 6 như hiện nay đảm bảo công khai, minh bạch nợ xấu, đồng thời tạo một sân chơi công bằng cho các NH khi tham gia kinh doanh. Ngoài ra để các văn bản pháp luật như Quyết định số 127/2005/QĐ- NHNN, Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN thực sự phát huy tác dụng, góp phần lành mạnh hóa môi trường Tín dụng của NH, NHNN phải đưa ra chế tài xử phạt đối với NH không thực hiện chuyển NQH theo đúng quy định, đồng thời phải sửa đổi các văn bản có liên quan như hệ thống tài khoản kế toán và văn bản trích dự phòng rủi ro (hiện chưa trích dự phòng đối với các khoản nợ được gia hạn nợ) để NQH được phản ánh đầy đủ, chính xác, thể hiện rõ chất lượng Tín dụng của NH, góp phần quan trọng vào việc hạn chế rủi ro Tín dụng trong hoạt động cho vay của NHTM.

3.3.4. Lãi suất nợ quá hạn

Lãi suất NQH theo quy định của NHNN “không quá 150% lãi xuất áp dụng trong thời hạn cho vay đã được ký kết hoặc điều chỉnh trong hợp đồng Tín dụng” [18, tr 3], như vậy một khách hàng đã gặp khó khăn do không trả được nợ đúng hạn thì nay lại phải chịu thêm gánh nặng vì lãi suất NQH quá cao. Để giảm bớt tình trạng này, có thể NHNN quy định tùy từng trường hợp có thể bỏ qua lãi suất NQH, mà để cho các NHTM tùy vào mức độ rủi ro và các yếu tố khác của từng khoản vay mà quy định mức lãi suất NQH mới phù hợp với từng khoản vay nhằm thu hồi nhanh nhất và đầy đủ nhất khoản vay phát sinh NQH. Hơn nữa, mức lãi suất NQH được căn cứ dựa trên mức quy

định của Thống đốc NHNN tại thời điểm ký hợp đồng tín dụng. Trên thực tế, trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng thì NH và khách hàng có thể thoả thuận với nhau để điều chỉnh mức lãi suất cho vay căn cứ vào quyết định điều chỉnh mức lãi suất cho vay đối với nền kinh tế của thống đốc NHNN trong cùng thời gian này. Vậy mà lãi suất làm căn cứ để xác định mức lãi suất NQH lại không được căn cứ vào mức lãi suất điều chỉnh hợp pháp đã được thực hiện mà lại phải căn cứ vào mức lãi suất từ khi ký kết hợp đồng tín dụng. Do đó, cần thay đổi điều này nhằm tránh những bất hợp lý khi có sự biến động lớn về lãi suất cho cả hai bên: TCTD và khách hàng. Quy định mới phải thể hiện được lãi suất làm căn cứ xác định NQH là mức lãi suất hai bên đang áp dụng đối với khoản vay tại thời điểm chuyển sang NQH. Có như vậy, việc áp dụng mức lãi suất NQH mới có ý nghĩa.

3.3.5. Về thời gian gia hạn nợ vay

Việc gia hạn nợ vay thuộc thẩm quyền của NHTM theo quy định tại Điều 54 Khoản 4 Luật các TCTD năm 2010 về thời gian gia hạn nợ. Việc quy định này là quá cứng nhắc, không tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý môi trường hoặc phát sinh từ thực tiễn, đòi khỏi phải có quy định linh hoạt trong chính sách như: Trường hợp khách hàng bị thua lỗ trong 2,3 năm liên tiếp do nguyên nhân bất khả kháng. Do vậy theo tôi pháp luật nên quy định tùy vào từng trường hợp cụ thể mà NHTM có quyền gia hạn thời hạn vay, phù hợp với điều kiện thực tế và chu trình sản xuất kinh doanh của các cá nhân, tổ chức.

3.3.6. Về thời hiệu khởi kiện

Quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án kinh tế 06 tháng đối với hoạt động Tín dụng là quá ngắn. Vì các khoản nợ vay của khách hàng khi đáo hạn mà vẫn chưa trả, NH thường phải thương lượng với khách hàng tìm ra giải pháp tốt nhất để thu nợ, tránh phải đưa ra kiện tụng tranh chấp trước toà, như vậy đã mất một khoảng thời gian dài. Nếu khách hàng biết được quy định này mà cố ý không xác nhận nợ trong vòng 6 tháng thì NH không thể khởi kiện do hết thời hạn hiệu lực khởi kiện và điều đương nhiên là quyền lợi chính đáng

của NH không được bảo vệ. Do vậy, nên chăng kéo dài thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp có liên quan đến hoạt động NH lên 1 năm để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho các bên, khi xảy ra tranh chấp.

3.3.7. Sửa đổi các quy định pháp luật về bảo đảm tiền vay

Bên cạnh việc quy định cho vay có tài sản bảo đảm như là điều kiện tiên quyết thì NH cũng nên xem xét đến khả năng sinh lời của vốn vay khi quyết định cấp Tín dụng cho khách hàng.

Pháp luật cần quy định thống nhất ở các văn bản, để tránh việc áp dụng chồng chéo giữa Bộ luật Dân sự và các văn bản chuyên ngành, cho phép NH được quyền chủ động xử lý tài sản bảo đảm khi khách hàng không thanh toán được các khoản nợ đến hạn, sau khi đã áp dụng các biện pháp cần thiết.

Nghị định số 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các TCTD đã khắc phục được tình trạng ách tắc trong xử lý tài sản tài chính của các TCTD. Nghị định này quy định rõ: khi nợ đến hạn mà khách hàng vay, bên bảo lãnh không thực hiện, hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đối với TCTD, thì tài sản làm đảm bảo tiền vay được xử lý để thu hồi nợ. Trước tiên, tài sản đảm bảo tiền vay được xử lý theo phương thức đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng, trường hợp các bên không xử lý được tài sản đảm bảo tiền vay theo phương thức thoả thuận thì TCTD có quyền bán, chuyển nhượng tài sản thế chấp, cầm cố để thu hồi nợ hoặc chuyển giao quyền thu nợ và uỷ quyền cho bên thứ 3 xử lý tài sản đảm bảo tiền vay. Nếu tài sản đảm bảo tiền vay không xử lý được do không thoả thuận được giá bán, thì TCTD có quyền định giá tài sản để thu hồi nợ. Tiền thu được từ xử lý tài sản đảm bảo tiền vay sau khi đã trừ đi chi phí xử lý thì TCTD thu nợ theo thứ tự nợ gốc, lãi vay, lãi quá hạn, các chi phí khác (nếu có). Như vậy, NH đã chủ động hơn trong việc xử lý tài sản bảo đảm. Tuy nhiên trong thực tế, việc NH lấy được tài sản Tài chính để bán thu hồi nợ đã gặp không ít khó khăn và trở ngại như bên đi vay không tự nguyện giao tài sản cho NH, thân nhân của bên thế chấp tài sản có hành vi đe doạ đến sức khoẻ, tính mạng của cán bộ tín dụng trong khi làm nhiệm vụ phát

mại tài sản. Để đảm bảo thực hiện được quy định trên đây thì cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ có hiệu quả của các cơ quan Nhà Nước có thẩm quyền.

Thừa nhận nguyên tắc xử lý nợ xấu theo hướng tối đa hóa lợi ích thu được từ tài sản bảo đảm, khi xử lý tài sản đảm bảo thì ngân hàng tiến hành kê biên, niêm phong tài sản, đảm bảo ngay từ khi khách hành vi phạm nghĩa vụ trả nợ, điều này khiến cho việc khi khai thác lợi tức từ tài sản này bị hạn chế, do vậy nên chăng Pháp luật quy định cho phép NH tiếp tục phối hợp với khách hàng vay duy trì hoạt động kinh doanh của tài sản đảm bảo, để khai thác tối đa nguồn lợi từ tài sản đảm bảo tránh cho NH và khách hàng vay đỡ bị thiệt thòi.

Thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm, theo quy định tại Thông tư “03/2001/TTLT/NHNN-BTP-BCA-TCĐC” về xử lý tài sản bảo đảm thì việc thanh toán thu nợ được tiến hành theo thứ tự:

- Các chi phí cần thiết để xử lý tài sản bảo đảm: Chi phí bảo quản, quản lý, định giá, quảng cáo bán tài sản…

- Thuế và các khoản phí nộp ngân sách nhà nước nếu có

- Nợ gốc, lãi vay, lãi quá hạn tính đến ngày bên bảo đảm giao tài sản cho ngân hàng xử lý.

Tuy nhiên, ở Điều 335 và Điều 338 Bộ Luật Dân sự 2005 lại quy định bán tài sản thế chấp, cầm cố được sử dụng để thanh toán nghĩa vụ cho bên nhận thế chấp, cầm cố sau khi trừ đi chi phí bảo quản, bán tài sản và các chi phí cần thiết khác có liên quan để xử lý tài sản bảo đảm, chứ không dùng số tiền thu được này để thanh toán thuế và các khoản phí nộp ngân sách nhà nước. Thực tế nhiều năm qua, nhiều trường hợp tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm không đủ để thu nợ nhưng NH vẫn phải nộp thuế và các khoản phí nộp ngân sách Nhà nước. Vì vậy, quy định trên cần sửa đổi theo hướng phù hợp với thực tế và quy định các văn bản Pháp luật hiện hành.

3.3.8. Xây dựng và hoàn thiện thị trường mua, bán nợ

Xây dựng và hoàn thiện thị trường mua, bán nợ theo cách thức:

Xem tất cả 117 trang.

Ngày đăng: 09/09/2024