Pháp luật về xử lý nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam - 13

+ Củng cố, kiện toàn, nâng cao quy mô của DATC lên mô hình Tổng Công ty. DATC nên được chuyển thành DN đặc biệt, có thể chủ động trong xử lý nợ tái cấu trúc DN, hoạt động công ích và các khoản lỗ do mua, bán nợ phải được Nhà nước xem xét bù lại.

+ Nhà nước nên cấp thêm vốn cho DATC hoạt động để có thể mua được những khoản nợ và tài sản tồn đọng có giá trị lớn.

+ Nhà nước cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý một cách đầy đủ và đồng bộ cho hoạt động của công ty mua, bán nợ, sớm quy định rõ, cụ thể các vấn đề đặc thù trong quá trình thực hiện như: Miễn giảm một phần nghĩa vụ trả nợ để xử lý tồn tại tài chính, hỗ trợ tài chính thông qua việc chuyển nợ thành vốn góp, bảo lãnh vay vốn NH hoặc cho vay bổ sung để DN có vốn hoạt động, giúp DN khẩn trương bảo dưỡng, sửa chữa máy móc, thiết bị hoặc tiếp tục duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh chuẩn bị cho giai đoạn tái cơ cấu. Bên cạnh đó, nội dung thỏa thuận giữa DATC với các Bộ, UBND các Tỉnh để chuyển đổi sở hữu đối với DNNN thua lỗ, không còn vốn Nhà nước thông qua hoạt động mua, bán nợ cũng cần được hướng dẫn cụ thể để cùng thống nhất thực hiện.

+ Mở rộng việc mua, bán nợ và tài sản tồn đọng không chỉ của DNNN mà còn của các loại hình DN, các tổ chức kinh tế khác trong nền kinh tế theo nguyên tắc thỏa thuận, góp phần đẩy nhanh quá trình sắp xếp lại DN.

+ Phải xác định được giá mua bán các khoản nợ, công ty có thể phải chịu thiệt thòi khi mua các khoản nợ khó đòi. Giá mua không chỉ căn cứ vào thoả thuận giữa NH và khách hàng mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Giá mua các khoản nợ phải phản ánh được những tổn thất mà NH phải gánh chịu, tránh tình trạng dựa dẫm, ỷ lại vào công ty, ít để ý đến tình trạng của khoản vay mới.

+ Về nguyên tắc hạch toán của công ty: Phải là cân đối bằng thu chi, tránh tình trạng quá coi trọng lợi nhuận dẫn đến tình trạng hoạt động không thể tiến triển được, nhưng cũng không nên chấp nhận tình trạng lỗ thường

xuyên, ỷ lại vào nhà nước, với nguyên tắc này thì cả nhà nước và NH đều phải gánh chịu rủi ro Tín dụng.

+ Công ty cần được trao một số đặc quyền ưu đãi khi xử lý nợ như: Không phải đóng thuế khi bán các tài sản, giảm bớt các thủ tục pháp lý rườm rà.

+ Cần đa dạng hóa các hình thức mua nợ, xử lý nợ để đẩy mạnh hoạt động mua, bán nợ. Hiện nay NHNN đã ban hành dự thảo Thông tư quy định về hoạt động mua, bán nợ, đây là tín hiệu đáng mừng cho hoạt động này. NHNN cần sớm hoàn thiện và chính thức ban hành Thông tư để tạo điều kiện thuận lợi cho các bên khi tham gia vào hoạt động mua, bán nợ.

3.3.9. Hoàn thiện pháp luật về Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc Ngân hàng Thương mại

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.

Quy mô và dư nợ tín dụng của NHTM ngày càng tăng, kéo theo nhiều cơ hội phát triển cho hoạt động của AMC. Trong khi hoạt động của AMC vẫn chỉ gói gọn trong việc quản lý nợ và khai thác tài sản của công ty mẹ do đó, AMC có thêm rất nhiều cơ hội để mở rộng phạm vi hoạt động sang các TCTD và tổ chức tài chính khác như môi giới mua bán bất động sản, tư vấn cơ cấu DN. Tuy nhiên, thực tế hiện nay chưa có văn bản pháp luật quy định cụ thể về cơ chế hoạt động cho AMC, AMC vẫn chỉ chịu điều chỉnh theo Luật DN. Bên cạnh đó cũng chưa có một hành lang pháp lý cho hoạt động mua, bán nợ, hoạt động của các công ty quản lý nợ còn đơn giản. Do vậy, cần sớm ban hành văn bản pháp luật quy định cụ thể về cơ chế hoạt động của AMC, để hỗ trợ cho AMC các thẩm quyền đặc biệt như: Quyền được yêu cầu được cung cấp thông tin và hồ sơ đầy đủ từ các DN và các cơ quan quản lý chuyên ngành như: cơ quan thuế, NH …; Quyền tuyên bố phong toả đối với những khoản nợ và tài sản thu được để ngăn cản các bên cho vay khác thực hiện thanh lý đối với tài sản; Quyền sở hữu đầy đủ đối với khoản nợ và tài sản đã thu được để việc cơ cấu lại, quản lý và bán tài sản hiệu quả hơn; Cơ chế giá được hình thành theo giá thị trường do hai bên thoả thuận, căn cứ vào tiêu chuẩn do hội đồng thẩm định giá độc lập đưa ra…Ngoài ra, nhân tố con người cũng cần

được quan tâm, đào tạo cán bộ cho AMC có đủ kỹ năng mới của AMC, học tập kinh nghiệm trong và ngoài nước và miễn thuế cho AMC bởi vì suy cho cùng hoạt động của AMC cũng chỉ là thu lại khoản nợ cho NH đã cho khách hàng vay.

Pháp luật về xử lý nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam - 13

3.3.10. Quy định bổ sung các biện pháp xử lý nợ quá hạn

Ngoài các biện pháp xử lý NQH như đã trình bày ở trên các NHTM, cần nghiên cứu, áp dụng một số biện pháp xử lý nợ như: nuôi nợ, đồng tài trợ…Đó là biện pháp NH tiếp thêm vốn để giúp khách hàng vượt qua được thời kỳ khó khăn về tài chính tạm thời. Trong những trường hợp như thế này, việc NH tiếp tục tài trợ cho khách hàng là một hành động mạo hiểm có tính rủi ro cao, thêm vào đó nếu không thu được nợ thì khoản nợ sẽ còn cao hơn trước. Chính vì thế khi áp dụng biện pháp này, NH cần phải thẩm định lại khách hàng thật cụ thể, phải đánh giá xem khả năng trả nợ trong tương lai của khách hàng là như thế nào, có thuận lợi hay không? Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp này thành công sẽ có thể nâng cao uy tín của NH trên thị trường, giữ được các khách hàng truyền thống và thu hút được thêm các khách hàng mới.

3.3.11. Quy định nghĩa vụ bắt buộc Bảo hiểm Tín dụng

Bảo hiểm Tín dụng là một cách thức để bảo vệ hoạt động kinh doanh của các các nhân, tổ chức trước những rủi ro của việc không thanh toán khi giao dịch với điều khoản trả sau. Một khi hàng hóa được gửi đi và khách hàng chấp nhận điều kiện giao hàng, khi đó họ có nghĩa vụ phải thanh toán đúng hạn. Tuy nhiên, nếu bên bán không nhận được khoản thanh toán thì Công ty Bảo hiểm Tín dụng sẽ Bảo hiểm cho những rủi ro về tài chính tiềm tàng này.

Tổ chức thực hiện Bảo hiểm Tín dụng có trách nhiệm bồi thường cho các NH khi có rủi ro xảy ra theo quy định. Ngoài ra, cơ quan này còn có nhiệm vụ phối hợp với các ngành hữu quan, tổ chức các biện pháp để đề phòng, ngăn chặn hạn chế, đồng thời bù đắp khi có tổn thất xảy ra, đảm bảo an toàn cho bản thân tổ chức cũng như cho NH. Tổ chức này không bồi thường hoàn toàn giá trị bị tổn thất thực tế, mà việc bồi thường sẽ theo một tỉ

lệ nhất định tùy thuộc vào tính chất của từng loại rủi ro và mức bảo hiểm đóng góp. Thực tế hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 2011/ QĐ-TTg về việc triển khai thí điểm Bảo hiểm Tín dụng xuất khẩu (BHTDXK) giai đoạn 2011-2013, tuy nhiên đây là một lĩnh vực còn mới và còn nhiều thách thức.

BHTDXK là loại hình bảo hiểm nhằm cung cấp bồi thường tài chính về các khoản nợ khó đòi theo các hợp đồng mua bán, xuất nhập khẩu phát sinh do các rủi ro Thương mại hoặc rủi ro chính trị trong giao dịch Thương mại quốc tế. Căn cứ vào Điều 7 Luật Kinh doanh bảo hiểm, BHTDXK là một loại hình của bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính, thuộc nghiệp vụ kinh doanh của các DN bảo hiểm phi nhân thọ. Theo giấy phép thành lập và hoạt động do Bộ Tài chính cấp cho các DN bảo hiểm, phần lớn các DN bảo hiểm được phép triển khai BHTDXK nhưng hiện mới có 03 DNBH bắt đầu triển khai BHTDXK, bao gồm: Tổng công ty cổ phần bảo hiểm dầu khí (PVI); Tổng công ty cổ phần Bảo Minh (Bảo Minh); Công ty TNHH bảo hiểm QBE (Việt Nam). Nguyên nhân của việc bảo hiểm tín dụng xuất khẩu chưa được chào đón là do Nhà nước chưa có chính sách đầu tư, khuyến khích phát triển BHTDXK, đây là điều kiện tiên quyết đối với tất cả các quốc gia muốn đẩy mạnh xuất khẩu và hỗ trợ xuất khẩu an toàn. Còn về phía thương nhân, nhận thức về vai trò của BHTDXK còn hạn chế, đặc biệt đối với các tổ chức xuất khẩu lớn, với bạn hàng lớn và có hệ số tín nhiệm tốt nên họ chủ quan cho rằng kinh nghiệm xuất khẩu nhiều năm thì rủi ro người mua không thanh toán hay phá sản rất thấp. Đồng thời, họ quan niệm mua BHTDXK sẽ làm tăng chi phí, dẫn đến tăng giá thành hàng hóa xuất khẩu mà chưa nhận thức được quyền lợi của mình nếu tham gia BHTDXK nên chưa hình thành thói quen và nhu cầu đối với loại hình bảo hiểm này. Hơn nữa, hoạt động xuất khẩu liên quan hoạt động thương mại toàn cầu, nên đòi hỏi DN triển khai BHTDXK phải có hệ thống công nghệ thông tin tốt, dữ liệu về rủi ro đa dạng đối với từng quốc gia,

từng lĩnh vực ngành hàng,.. mạng lưới giao dịch lớn trên thế giới, nguồn nhân lực có kinh nghiệm chuyên sâu về BHTDXK thì mới triển khai được sản phẩm BHTDXK


BHTDXK cần được phát triển theo mô hình phù hợp với chiến lược kinh tế, phương thức kinh doanh quốc tế và nguyên tắc WTO, đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh và chịu sự điều chỉnh của luật pháp về bảo hiểm và thương mại. Cần mang tính chuyên môn cao và sự đầu tư lớn về vốn, công nghệ thông tin, nghiệp vụ đánh giá rủi ro, thu hồi nợ, giải quyết khiếu nại minh bạch, công bằng, phân tán rủi ro thông qua hoạt động tái bảo hiểm hoặc đồng bảo hiểm. Vì vậy việc tìm kiếm sự hợp tác của các công ty bảo hiểm tín dụng xuất khẩu quốc tế hàng đầu là cần thiết đối với DN bảo hiểm của Việt Nam. Cần có khung pháp lý và tạo điều kiện cho bảo hiểm tín dụng nói chung và bảo hiểm

tín dụng xuất khẩu nói riêng để hạn chế rủi ro tín dụng cho các NHTM.

KẾT LUẬN CHƯƠNG III


Từ tình hình NQH trong hoạt động cho vay của các NHTM ở Việt Nam và thực trạng áp dụng pháp luật cho thấy công tác xử lý NQH không phải là việc làm đơn lẻ, mà nó là một chu trình tổng hợp, xen kẽ rất nhiều cách thức khác nhau. Việc xử lý NQH, đòi hỏi sự thống nhất từ việc áp dụng các quy định pháp luật tới việc thực hiện. Theo tác giả giải pháp nhằm hạn chế và xử lý NQH hiệu quả nhất hiện nay, đó là có sự phối hợp nhịp nhàng từ nhiều phía. Đối với Chính phủ, Bộ, ban, ngành và ngân hàng nhà nước nên xem xét, sửa đối các quy định về phân loại nợ theo chuẩn quốc tế để có cái nhìn chân thực và chính xác hơn về nợ quá hạn và nợ xấu, tránh tình trạng “dấu nợ”, sửa đổi các quy định về pháp luật cho vay, xây dựng và hoàn thiện các thị trường mua, bán nợ để giúp cho ngân hàng hạn chế được rủi ro, đồng thời xem xét về lãi xuất NQH, thời gian gia hạn nợ, thời hiệu khởi kiện cũng như tiến tới việc quy định nghĩa vụ bắt buộc bảo hiểm tín dụng để bảo vệ hoạt động kinh doanh của các cá nhân, tổ chức. Còn về phía ngân hàng thương mại cần nghiêm chỉnh tuân thủ các quy định của pháp luật, thực hiện đúng quy trình tín dụng. Vậy xử lý nợ quá hạn đòi hỏi sự thống nhất từ Pháp luật tới việc áp dụng và thi hành. Với những giải pháp đưa ra tác giả hy vọng sẽ giúp các Ngân hàng Thương mại khắc phục và xử lý tình trạng nợ quá hạn đang ngày càng tăng ở Việt Nam

KẾT LUẬN CHUNG


Nợ quá hạn là một vấn đề mà không ai mong muốn, kể cả từ phía bên cho vay và bên đi vay, bản chất của nợ quá hạn là các khoản vay đến hạn thanh toán theo hợp đồng Tín dụng mà khách hàng không thực hiện nghĩa vụ của mình đối với Ngân hàng. Trên thực tế, nguyên nhân của việc không trả nợ đúng hạn là do việc sử dụng vốn vay của khách hàng không hiệu quả, dẫn đến tình trạng trên. Sau khi nghiên cứu, phân tích các vấn đề lý luận, thực tiễn của các quy định pháp luật về NQH trong hoạt động cho vay của các NHTM. Ngoài việc nêu ra các hạn chế, ưu điểm của hệ thống pháp luật về xử lý NQH, tác giả đưa ra một số ý kiến sau:

Thứ nhất: Nhằm bảo đảm cho hoạt động của các NHTM đạt được các mục tiêu như: An toàn, hiệu quả, tính cạnh tranh cao, NHTM cần áp dụng các biện pháp xử lý NQH để bảo đảm an toàn cho hoạt động của các NHTM nhằm hạn chế các rủi ro có thể xảy ra ở mức thấp nhất.

Thứ hai: Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về xử lý NQH trong hoạt động cho vay của NHTM luôn được đặt ra cấp thiết đối với cả hệ thống NH và toàn bộ nền kinh tế, đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng.

Thứ ba: Để việc hoàn thiện pháp luật về xử lý NQH trong hoạt động cho vay của NHTM được an toàn, hiệu quả cao cần xây dựng các qui định nhằm nâng cao hiệu quả của việc xử lý NQH, đặc biệt xây dựng các qui định có tính chất dự báo, phòng ngừa, hạn chế NQH. Đồng thời, kết hợp nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm của nước ngoài trong việc xây dựng pháp luật điều chỉnh việc xử lý NQH.

Tác giả hy vọng những kiến nghị trong luận văn này là tài liệu để các NHTM, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong việc áp dụng và xây dựng

hoàn thiện các qui định của pháp luật về xử lý NQH nói riêng và pháp luật NH nói chung trong hoạt động cho vay của các NHTM ở Việt Nam. Vớ i vai trò quan trọng như đã phân t ích ở trên , pháp luật về x ử lý NQH và phá p luậ t NH nói chung cần được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn.

Tác giả chân thành mong muốn nhận được sự phê bình , đó ng gó p ý kiế n củ a cá c nhà nghiên cứ u , các thầ y, cô giá o và cá c bạ n đồ ng nghiệ p để luậ n văn đượ c hoà n thiệ n.

Xem tất cả 117 trang.

Ngày đăng: 09/09/2024