Kinh Nghiệm Của Một Số Nước Về Xử Lý Nợ Quá Hạn Trong Hoạt Đông Cho Vay Của Ngân Hàng Thương Mại Và Bài Học Kinh Nghiệm Đối Với Việt Nam

Riêng về vấn đề liên quan đến DATC bảo lãnh cho DN vay vốn NH hoặc DATC cho vay hỗ trợ vốn tạm thời cho các DN để thực hiện tái cơ cấu, thực tế cho thấy không phải DN nào được DATC tái cơ cấu cũng được DATC cho vay vốn hoặc bảo lãnh để DN vay vốn NH. Tuy nhiên, không ít trường hợp đã chỉ ra rằng nếu không được DATC cho vay vốn tạm thời hoặc bảo lãnh để vay vốn NH thì phương án tái cơ cấu, chuyển đổi sở hữu DN, khách nợ khó có thể thực hiện hiệu quả như mong muốn. Đặc điểm của hoạt động mua bán nợ gắn với tái cơ cấu DN, khách nợ đều là những DN lâm vào tình trạng phá sản, cực kỳ khó khăn về tài chính. Vì vậy việc DATC cho vay, hỗ trợ, hoặc bảo lãnh để DN khách nợ, vay vốn NH là rất cần thiết cho việc tái cơ cấu. Điều này hoàn toàn phù hợp với thẩm quyền của DN đã được quy định tại Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn dưới luật, đồng thời không vi phạm luật các TCTD.

Đối với việc xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ cho NH mà tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất đã và đang gặp nhiều khó khăn, phần lớn các tài sản bảo đảm cho món vay là quyền sử dụng đất. Luật Đất đai 2003 quy định hộ gia đình, cá nhân được nhà nước giao đất không phải là đất thuê có quyền thế chấp, bảo lãnh ở các TCTD được phép hoạt động ở Việt Nam để vay vốn sản xuất kinh doanh, nhưng vấn đề đặt ra ở đây là NH xác định mức cho vay dựa trên khung giá quy định của ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố để xác định mức cho vay, mà giá đó thường thấp hơn rất nhiều lần giá trị thực tế của tài sản bảo đảm, do vậy nhu cầu của khách hàng vay thường không được đáp ứng. Mặc dù hiện nay các NHTM đang có nhiều phương thức xác định giá trị tài sản bảo đảm là đất ở, để tạo điều kiện cho khách hàng vay có thể tiếp cận gần hơn với các khoản vay.

NH chưa thực hiện được quyền chủ động, bán các tài sản do thủ tục xử lý, chuyển nhượng quyền sở hữu bất động sản còn nhiều phức tạp, qua nhiều khâu, nhiều cấp mà mỗi cấp lại có những quy định không đồng bộ với nhau. Khi xử lý tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất được chuyển sang trung tâm

bán đấu giá chuyên trách, thuộc Sở tư pháp để xử lý thì tiến độ xử lý chậm, thậm chí có nhiều trường hợp tồn đọng, không xử lý được do một số trung tâm bán đấu giá hoạt động kém hiệu quả.

Có nhiều trường hợp TCTD có thể phối hợp với người có tài sản bảo đảm, để xử lý hoặc tự xử lý được nhưng khi tiến hành chuyển quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất cho người mua thì cơ quan chức năng từ chối việc thực hiện công chứng, đăng bộ…với lí do quyền sử dụng đất trong trường hợp này phải thông qua Trung tâm bán đấu giá chuyên trách theo quy định tại Khoản 3 Mục III, Phần B của Thông tư liên tịch 03/2001/TTLT/NHNN-BTP-BCA-BTC- TCĐC thì TCTD phải xin phép Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho phép bán đấu giá (Ủy ban nhân dân huyện đối với đất đã thế chấp của hộ gia đình, các nhân, UBND tỉnh đối với đất đã thế chấp của tổ chức). Tuy vậy, trong trường hợp Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền không cho phép bán đấu giá quyền sử đất, thì Thông tư 03/2001/TTLT/NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC lại không đề cập. Do đó TCTD không được xử lý tài sản thế chấp để thu hồi khoản nợ vay của khách hàng và kết quả là quyền và lợi ích hợp pháp của NH không được đảm bảo. Không những thế, quy trình hoàn tất việc xử lý một tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất phải mất 15 ngày xin cơ quan có thẩm quyền cho phép bán đấu giá tài sản; 15 ngày thực hiện việc đăng ký bán đấu giá tài sản; 30 ngày niêm yết tài sản bán đấu giá; 60 ngày cho thời gian cấp giấy chứng nhận cho người mua tài sản. Ngoài ra thời hạn này có thể phải kéo dài hơn do tài sản không tìm được người mua, hoặc những trở ngại từ trung tâm bán đấu giá, chủ sở hữu của tài sản gây khó khăn, không có thiện chí hợp tác…

Vấn đề liên quan đến bán đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất trong trường hợp DN bị phá sản để thu nợ cho NH. Theo quy định của Luật Phá sản 2004 thì trong trường hợp DN bị tuyên bố phá sản, tài sản của DN trong đó có quyền sử dụng đất, được bán đấu giá để trang trải các khoản nợ của DN bị phá sản, nhưng theo quy định của Luật Đất đai 2003 thì Nhà nước sẽ thu hồi đất đã giao trong trường hợp tổ chức bị giải thể, phá sản nhưng lại không đề

cập đến hậu quả pháp lý của việc thu hồi đó; Giao cho tổ chức khác sử dụng hay thu hồi để bán đấu giá quyền sử dụng đất để thu hồi vốn cho DN, trang trải các khoản nợ. Trong trường hợp này, tài sản gắn liền với đất được xử lý ra sao? Vấn đề đặt ra là cần phải xem xét, sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện các quy định về việc giải quyết quyền sử dụng đất đối với các DN bị phá sản nói riêng và hoàn thiện pháp luật phá sản nói chung, không chỉ tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ quyền lợi cho các DN bị phá sản mà còn cả các bên liên quan, trong đó có các NHTM với tư cách chủ nợ.

Trong quá trình áp dụng các văn bản pháp luật về DN, chưa thấy có sự tách bạch về vai trò chủ sở hữu và vai trò quản lý của nhà nước đối với vốn và tài sản nhà nước đầu tư cho DN. Tại Luật DN, nhà nước quy định “DN nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do DN quản lý”. Như vậy theo Bộ luật dân sự 2005 Điều 84 quy định điều kiện để tổ chức có tư cách pháp nhân thì DN nhà nước phải có tài sản tách biệt với tài sản, được chủ sở hữu giao khi thành lập DN và chịu trách nhiệm hữu hạn về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi tài sản của DN. Nhưng DN nhà nước chỉ có quyền “quản lý và sử dụng vốn” và các tài sản khác do nhà nước giao thay vì có quyền sở hữu đối với tài sản của mình như các pháp nhân khác. Quy định này không phù hợp với quy định về tư cách pháp nhân của DN, gây khó khăn cho DN nhà nước trong việc giao dịch với NHTM. Hơn nữa khi vay vốn của NH thì DN nhà nước phải thế chấp tài sản là dây chuyền công nghệ chính của DN, theo quy định của cơ quan quản lý ngành kinh tế kỹ thuật thì phải được cho phép của cơ quan quyết định thành lập DN, trong khi các cơ quan quản lý kinh tế kỹ thuật vẫn chưa ban hành các quy định xác định dây chuyền công nghệ “chính” trong từng ngành là những tài sản nào. Khi xử lý tài sản thế chấp của DN nhà nước, có trường hợp NH không xử lý được do tài sản bảo đảm, vì chưa được phép thế chấp của cơ quan thành lập DN.

Theo quy định của Luật DN 2005, người đại diện theo pháp luật của

Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có thể là Chủ tịch hội đồng thành viên, Chủ tịch hội đồng quản trị nếu điều lệ công ty quy định hoặc Giám đốc công ty trong trường hợp còn lại. Như vậy trong trường hợp các loại hình công ty trên vay vốn của NH thì NH phải kiểm tra tư cách đại diện của người ký kết. Trong trường hợp điều lệ công ty có quy định người đại diện theo pháp luật của công ty là Chủ tịch Hội đồng quản trị, Chủ tịch Hội đồng thành viên thì Giám đốc công ty chỉ có thẩm quyền ký kết với TCTD khi có văn bản ủy quyền của Chủ tịch hội đồng quản trị hoặc Chủ tịch hội đồng thành viên.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.

Vấn đề góp vốn thành lập DN trong đó có việc góp vốn bằng tài sản, tài sản góp vốn chỉ được xem là tài sản của công ty sau khi đã thực hiện xong việc chuyển quyền sở hữu. Đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu hoặc giá trị quyền sử dụng đất thì người góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản đó hoặc quyền sử dụng đất cho công ty, tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đối với tài sản không phải đăng ký quyền sử dụng, thì việc góp vốn phải được thực hiện bằng việc giao nhận tài sản có xác nhận bằng văn bản. Như vậy khi xem xét cho khách hàng vay vốn, NH phải kiểm tra giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản của DN, khi nhận tài sản làm vật bảo đảm cho nghĩa vụ của DN.

2.8. Kinh nghiệm của một số nước về xử lý nợ quá hạn trong hoạt đông cho vay của Ngân hàng Thương mại và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

Pháp luật về xử lý nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam - 11

NQH không chỉ là vấn đề của riêng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, mà nó còn là vấn đề cần nghiêm túc, xem xét của các NHTM trên thế giới. Làm thế nào để thoát ra khỏi tình cảnh khó khăn này? Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới đã cho thấy, họ có thể vượt qua được và đã làm khá tốt nhiệm vụ của mình, có thể kể đến một quốc gia láng giềng của Việt Nam như Trung Quốc. Trong những năm trước đây, nợ trong các DN nhà nước ở Trung Quốc ngày càng tăng, trong khi lợi nhuận trên vốn ngày càng giảm, có năm

xuống tới dưới 0,2%. Song song với nó là hiệu quả kinh tế yếu kém, nguyên nhân là do trước đây nhà nước cải cách thuế, các khoản thuế phải nộp của các DN tăng, khiến cho lợi nhuận của DN giảm và nguồn tích lũy cũng theo đó giảm mạnh. Mặt khác, cơ chế xử lý tài sản tồn đọng và hàng hóa trong các DN tỏ ra cứng nhắc, khó có thể điều chỉnh và tối ưu hóa nguồn vốn, làm cho hàng hóa ứ đọng không tiêu thụ được, trong khi nguồn vốn mới lại không ngừng tăng lên. Mối quan hệ giữa Nhà nước và DN Nhà nước chưa được xử lý thỏa đáng. Các DN mượn danh nghĩa “Tín dụng Nhà nước” để vay NH. Các DN ỷ thế vào Nhà nước nên luôn có tư tưởng: Chỉ hưởng lãi mà không chịu lỗ. Còn các NH cũng lấy danh nghĩa “Tín dụng Nhà nước” để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân. Cuối cùng là “Tài sản Nhà nước” phải gánh chịu những rủi ro đối với những khoản vay của DN. Trong khi đó, công tác quản lý của NH lại rất lỏng lẻo và theo lề nếp cũ, nên dẫn đến tình trạng cho vay nhiều, thu hồi ít, các khoản đầu tư có nhiều rủi ro, gây lãng phí vốn…

Đứng trước tình trạng như vậy, Trung Quốc đã đưa ra một số giải pháp như: Thứ nhất: Đẩy mạnh việc xây dựng chế độ DN hiện đại, thu hút vốn,

xây dựng chế độ pháp nhân độc lập, hình thành việc chuyển đổi cơ chế và tăng cường cơ chế quản lý nội bộ DN. Thành lập các tập đoàn kinh tế mạnh, chống chế độ đầu tư dàn trải, chấm dứt hiện tượng chiếm dụng vốn lưu động, giảm bớt tỉ lệ nợ trong các DN bằng cách: xây dựng chế độ “Quyền tài sản phân minh, quyền và trách nhiệm rõ ràng, phân tách Nhà nước với DN, quản lý khoa học”

Thứ hai: Đẩy mạnh chế độ cổ phần hóa vừa giải quyết được vấn đề vốn eo hẹp, tăng cường ý thức trách nhiệm và ý thức làm chủ cho cán bộ, nhân viên trong DN, lại vừa có thể chuyển nợ thành cổ phần.

Thứ ba: Đẩy mạnh việc tổ chức sắp xếp lại các DN. Với các DN vừa và nhỏ, Trung Quốc thực hiện việc sát nhập, cho thuê, bán. Tạo điều kiện cho việc hợp nhất các DN thì Trung Quốc áp dụng các chính sách ưu tiên như

giảm lãi xuất đối với khoản vay NH, không tính lãi đối với khoản vay của một số DN, từ đó nhằm làm giảm nợ cho các DN.

Thứ tư: Cho phép các đơn vị trung gian tham gia vào việc xử lý và giải quyết các vấn đề nợ trong các DNNN. Các tổ chức trung gian này có thể thông qua kênh huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội để hỗ trợ vốn, giúp các DN giải quyết vấn đề nợ. Từng bước thành lập thị trường giao dịch, quyền tài sản góp phần cung cấp thông tin cho các tổ chức trung gian, tham gia giải quyết nợ trong các DNNN.

Đầu năm 2000, ở Nhật Bản để giúp các NH giải quyết được dễ dàng hơn các khoản cho vay khó đòi, Chính phủ Nhật Bản đã thông qua một biện pháp là tạo ra một “NH cầu nối” vào. Thực chất đây là một quỹ thuộc sở hữu nhà nước, được thành lập để quản lý một nguồn vốn lớn của chính phủ dự tính là 22.000 tỉ Yên. Có nghĩa là, chính phủ chi ra một khoản tiền lớn để cứu trợ hệ thống NH và bảo vệ các nhà đầu tư.

Mô hình này đã được chính phủ Mỹ áp dụng khá thành công trước đây. Chính phủ Nhật Bản cũng đã áp dụng biện pháp này, nhằm làm cho các Công ty hoạt động lành mạnh trở lại sau khi có nhiều Công ty Tài chính khác bị sụp đổ.

Như vậy, sự tham gia tích cực của Nhà nước mà đặc trưng cơ bản là sự tôn trọng phương tiện tái cấp vốn vì NQH có thể gây hiệu ứng đối với xã hội và nền kinh tế, nên tái cấp vốn là cần thiết để đảm bảo duy trì sự ổn định hệ thống NH. Sự tham gia của Chính phủ cũng tránh cho hệ thống NHTM những rủi ro không đáng có. Bên cạnh đó xu hướng trên Thế giới hiện nay là sáp nhập, mua lại của các NH với nhau để khai thác tối đa thế mạnh của các bên, mở rộng quy mô, đồng thời phân tán rủi ro.

KẾT LUẬN CHƯƠNG II


Hoạt động của ngành ngân hàng có thể ví như “Xương sống” của nền kinh tế, do vậy để giải quyết được vấn đề NQH đang tồn tại là một nhu cầu bức thiết trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, có thể thấy vẫn còn nhiều những tồn tại từ phía cơ chế, chính sách, pháp luật cũng như thực tế xử lý. Yêu cầu đặt ra để giải quyết tốt tình trạng này đó là phải có sự tham gia, phối hợp nhịp nhàng của Chính phủ, các Bộ, ban, ngành và Ngân hàng Nhà nước. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về xử lý NQH, sửa đổi và hoàn thiện về cơ chế thị trường mua, bán nợ, về công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thuộc Ngân hàng Thương mại, thị trường bất động sản, pháp luật về cho vay có bảo đảm và việc xử lý tài sản bảo đảm, cơ chế xử lý NQH. Đồng thời áp dụng các nguyên tắc phòng ngừa, hạn chế rủi ro tới mức thấp nhất. Tuy chưa có một văn bản chính thống điều chỉnh về vấn đề NQH, xong nhiều vấn đề liên thông trong quá trình xử lý nợ giữa các cơ quan khác nhau trong hệ thống luật pháp, hành pháp, tư pháp của nước ta được giải quyết bằng một hệ thống các văn bản pháp luật khác nhau. Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã và đang tìm ra các giải pháp để giải quyết dứt điểm tình trạng này. Từ thực trạng áp dụng pháp luật về xử lý NQH nêu trên, tác giả đề tài mạnh dạn kiến nghị một số nội dung nêu tại Chương 3 nhằm hạn chế và hoàn thiện pháp luật về việc xử lý NQH tại các NHTM ở Việt Nam hiện nay.

Chương III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ HẠN CHẾ

VÀ XỬ LÝ NỢ QUÁ HẠN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI


3.1. Tình hình nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam

Trên thế giới và trong lịch sử, nợ xấu của các NHTM từng được xem là thuộc danh mục bí mật của nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, thông tin về những con số nhạy cảm trước đây, cũng thuộc danh mục những thông tin “mật” ngày nay đã được cởi mở hơn.

Trong giai đoạn hiện nay, khi mà tình hình kinh tế có nhiều biến động, gây ảnh hưởng không tốt đến ngành NH. Tín dụng tăng chậm, thậm chí âm, trong khi nhiều khoản nợ cũ trở thành nợ xấu, khiến lợi nhuận của một số NH đang dần bị bào mòn, kết quả kinh doanh quý II/2012 đã phần nào nói nên thực tế đó. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam- (VCB) vốn được xem là có thế mạnh trong phát triển tín dụng. Thế nhưng, số liệu vừa được VCB đưa ra cho thấy, tăng trưởng tín dụng đến 30/6/2012 của Ngân hàng chỉ đạt mức 2,96%. Trong khi đó, tỷ lệ nợ xấu đã tăng từ 2% đầu năm lên 3,47% vào cuối quý II (Trong đó, nợ có khả năng mất vốn lên đến gần 3.900 tỷ đồng). Dù vậy, so về tốc độ tăng nợ xấu thì VCB vẫn còn còn thua xa NHTM cổ phần Công Thương Việt Nam (Vietinbank). Số liệu trong bản báo cáo tài chính riêng quý I của Vietinbank cho thấy, tổng số nợ xấu của Ngân hàng này đã tăng tới 139%, tức là hơn gấp đôi, từ 2.165 tỷ đồng cuối năm 2011 lên 5.176,7 tỷ đồng chỉ sau 3 tháng. Tăng mạnh nhất là các khoản nợ nhóm 4, từ hơn 200 tỷ lên 817 tỷ đồng, và nợ nhóm 3, từ 1.053 tỷ lên 3.358,5 tỷ đồng. Hệ quả tất yếu của sự sụt giảm chất lượng các khoản cho vay của NH này là số tiền trích lập dự phòng rủi ro cho vay khách hàng tăng từ 2.994 tỷ đồng cuối năm trước lên 3.738 tỷ đồng.

Xem tất cả 117 trang.

Ngày đăng: 09/09/2024