KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Trong chương này, nghiên cứu sinh đã tiến hành phân tích khung pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM thông qua hoạt động cấp tín dụng.
Những nội dung pháp lý cụ thể được phân tích, khảo sát trong chương này bao gồm: các quy phạm pháp luật liên quan đến nguồn vốn cấp tín dụng, về việc cấm và giới hạn cấp tín dụng, những lĩnh vực, hoạt động cụ thể được cấp tín dụng. Quy định việc sử dụng vốn của NHTM thông qua hoạt động cấp tín dụng là một vấn đề đã có từ các khi các Pháp lệnh về NH còn tồn tại. Tuy nhiên, qua thời gian, nội hàm của hoạt động cấp tín dụng đã thay đổi rất nhiều thể hiện trong Luật các TCTD năm 1997, Luật các TCTD năm 2010, Thông tư 36/2014/TT-NHNN, Thông tư 06/2016/TT-NHNN và các VB QPPL khác.
Thông qua việc phân tích lý thuyết và quy định về quyền sở hữu, nghiên cứu sinh nhận định rằng dù NHTM được xem là chủ sở hữu của nguồn vốn huy động từ XH nhưng NHTM không có quyền tự do quyết định việc sử dụng vốn đó để cấp tín dụng nói chung, cho vay nói riêng trong hoạt động sử dụng vốn của chính NHTM. Quyền năng định đoạt của NHTM trong trường hợp này bị giới hạn rất nhiều, giới hạn ở nhiều khía cạnh. Tuy nhiên, trong những giới hạn đó, có những giới hạn là cần thiết, có những giới hạn là chưa phù hợp với NHTM, có những giới hạn chưa phù hợp với nền kinh tế đang được xây dựng theo cơ chế thị trường. Ví dụ, có những giới hạn chưa phù hợp với tình hình thực tiễn hoạt động của chính NHTM và các chi nhánh, đơn vị phụ thuộc của NHTM.
Thông qua các vụ án lớn trong lĩnh vực NH, nghiên cứu sinh đã phân tích thực trạng tuân thủ pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM để cấp tín dụng. Trên cơ sở phân tích thực trạng về vốn, hoạt động sử dụng vốn, pháp luật về hoạt động sử dụng vốn để cấp tín dụng, trong nội dung chương 4, nghiên cứu sinh đã phân tích, nhận diện một số bất cập, vướng mắc xảy ra khi áp dụng các quy định về hoạt động sử dụng vốn đế cấp tín dụng của các NHTM. Trên cơ sở đó, luận án đề xuất một số ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật về đến hoạt động sử dụng vốn của các NHTM ở Việt Nam để cấp tín dụng. Các kiến nghị được thể hiện chi tiết ở các nội dung chính như sau:
Thứ nhất, nhà nước cần giảm bớt sự can thiệp về mặt hành chính đối với hoạt động sử dụng vốn của NHTM thông qua việc cấp tín dụng. Có như thế, hoạt động sử dụng vốn của NHTM mới linh hoạt theo cơ chế thị trường, không còn mang nặng cơ chế xin cho như thời bao cấp, không còn là rào cản cho hoạt động cải cách thủ tục hành chính, cản trở quyền tự do kinh doanh của các NHTM.
Thứ hai là cần có nhiều hướng dẫn chi tiết hơn, cụ thể hơn về việc cấp tín dụng và đầu tư của NHTM cho các dự án đáp ứng yêu cầu về môi trường. Bên cạnh đó, cần
có các định hướng cho việc cấp tín dụng về môi trường như danh mục các dự án đáp ứng yêu cầu về môi trường.
Thứ ba, trước mắt, khi thị trường trái phiếu doanh nghiệp còn chưa đáp ứng được nhu cầu vốn trung và dài hạn thì Việt Nam còn quy định cho phép sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Nhưng về lâu dài khi thị trường tài chính đã phát triển, các NHTM không còn là nơi cung cấp chính và duy nhất nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, Việt Nam cần xóa bỏ việc quy định cho sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Hiện nay, quy định về giới hạn tỉ lệ nguồn vốn ngắn hạn để cấp tín dụng trung và dài hạn chỉ nên được sử dụng như một phương thuốc dự phòng, khi nền kinh tế thực sự cần thì mới dùng đến để đánh giá việc tuân thủ và xử lý các NHTM không tuân thủ giới hạn đó.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Bất Cập Và Kiến Nghị Hoàn Thiện Pháp Luật Về Hoạt Động Sử Dụng Vốn Của Ngân Hàng Thương Mại Để Cấp Tín Dụng
- Bất Cập Và Kiến Nghị Liên Quan Quy Định Sử Dụng Vốn Ngắn Hạn Để Cho Vay Trung Và Dài Hạn
- Pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng thương mại Việt Nam - 20
Xem toàn bộ 176 trang tài liệu này.
Thứ tư, việc điều tiết nguồn vốn của NHTM để cấp tín dụng không nên quá khắt khe. Trong trường hợp NHTM cấp tín dụng có bảo đảm bằng khoản tiền gửi tiết kiệm của khách hàng, dư nơ cấp tín dụng không nên loại bỏ cả khoản cấp tín dụng này khi tính các tỉ lệ an toàn.
Thứ năm, việc cấp tín dụng cho lĩnh vực BĐS nên được triển khai theo hướng tách biệt, phân định rõ việc cấp tín dụng cho tiêu dùng liên quan nhà đất với tín dụng cho kinh doanh BĐS, tránh trường hợp vay để kinh doanh BĐS nhưng được ngụy trang dưới dạng vay tiêu dùng. Về việc này, nghiên cứu sinh đã tham khảo kinh nghiệm của một số quốc gia như Trung Quốc trong việc gián tiếp điều chỉnh hoạt động sử dụng vốn của NH thông qua các chinh sách liên quan đến BĐS.
Việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM thông qua việc cấp tín dụng phải theo các định hướng sau: (i) phù hợp với các nguyên tắc đã được phân tích ở chương 2; (ii) kích thích sản xuất, kinh doanh phát triển; phù hợp với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế; (iii) hài hòa lợi ích của các bên trong quan hệ tín dụng, (iv) giảm thiểu rủi ro đồng vốn của NHTM; (v) đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của nền kinh tế.
Trong chương này, nghiên cứu sinh đã áp dụng cách thức tiếp cận về mặt kinh tế để phân tích hoạt động sử dụng vốn của NHTM thông qua việc áp dụng quy định giới hạn việc dùng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn, việc đặt ra các chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các NHTM. Để từ đó, nghiên cứu sinh phân tích và chỉ ra rằng, việc đặt ra các giới hạn trong 2 nội dung trên đã làm gia tăng chi phí tuân thủ cho các NHTM và khi chi phí tuân thủ có xu hướng cao hơn hoặc vượt qua mức lợi nhuận của NHTM thì quy định đó cần được xem xét lại.
Thứ sáu, kết quả nghiên cứu của chương 4 đã trả lời câu hỏi nghiên cứu số 2. Theo đó, các NHTM chỉ có thể dựa trên kết quả công bố của các cơ quan quản lý về môi
trường, cơ quan quản lý doanh nghiệp để làm cơ sở đánh giá trước khi cấp tín dụng cho những chủ thể kinh doanh có điều kiện.
Thứ bảy, trên cơ sở áp dụng phương pháp nghiên cứu so sánh, nghiên cứu sinh có kiến nghị việc cấp tín dụng của NHTM ở Việt Nam nên đi theo hướng cấp tín dụng theo chuỗi. Đây là kinh nghiệm của 2 quốc gia là vương quốc Thái Lan và Cộng hòa Kazakhstan.
KẾT LUẬN CỦA LUẬN ÁN
Hoạt động sử dụng vốn của NHTM là một vấn đề rất quan trọng không chỉ đối với chính NHTM mà còn đối với nền kinh tế, xã hội và việc quản lý của nhà nước. Cho đến nay, đã có nhiều nghiên cứu về hoạt động sử dụng vốn của NHTM và pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM ở nhiểu góc độ khác nhau. Những nghiên cứu đó là cơ sở quan trọng cho nghiên cứu sinh trong việc nghiên cứu, tiếp thu, tổng hợp, phân tích, kế thừa và phát triển thành luận án này.
Luận án này đã luận giải bản chất kinh tế của các quy định pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM. Đồng thời, luận án này đã phân tích thực trạng hoạt động sử dụng vốn của các NHTM ở Việt Nam, trình bày, nhận định, đánh giá và phân tích những quy định pháp luật hiện hành về hoạt động sử dụng vốn của NHTM. Thực trạng hoạt động sử dụng vốn hiện hành và thực trạng pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động sử dụng vốn của NHTM đã đặt ra nhu cầu nghiên cứu, kiến nghị các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM.
Những công trình nghiên cứu của các tác giả khác, kết quả nghiên cứu của luận án này đã giúp nghiên cứu sinh đưa ra các nhận định sau đây:
- Hiện nay, các NHTM không hoàn toàn được tự do quyết định việc sử dụng vốn của NHTM. Các hoạt động sử dụng vốn của NHTM phải chịu sự quản lý của nhà nước nói chung, NHNN nói riêng. Việc quản lý này được thực hiện thông qua thủ tục hành chính, quy định của pháp luật và sự điều tiết bằng chính sách như sau:
- Quản lý bằng thủ tục hành chính được thể hiện chủ yếu ở hoạt động cấp giấy phép, sửa đổi, bổ sung giấy phép.
- Điều tiết bằng chính sách thể hiện qua việc NHTM được định hướng hoạt động sử dụng vốn vào một số lĩnh vực, dự án, một số đối tượng cụ thể. Các NHTM, bên cạnh mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận từ vốn tự có và vốn huy động, còn phải thực hiện các sứ mệnh của nhà nước như thực hiện chính sách tiền tệ, phát triển nông nghiệp, nông thôn; hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp nhỏ và vừa, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững nền kinh tế, v.v.
-Quản lý bằng pháp luật được thể hiện qua các QPPL do nhà nước ban hành như Luật các TCTD năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng như dưới các hình thức khác của pháp luật như đã phân tích tại chương 2 của luận án này.
Hai loại vốn dùng cho hoạt động cấp tín dụng và đầu tư đến từ hai nguồn khác nhau: một bên là từ vốn của chủ sở hữu của NHTM, một bên là tổng nguồn vốn của NHTM. Chính sự khác biệt này đã chi phối việc ban hành các VB QPPL liên quan đến hoạt động sử dụng vốn của NHTM. Đối với trường hợp vốn của NHTM là từ xã hội, từ nhiều nguồn khác nhau, sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động sử dụng vốn của
NHTM sẽ càng chặt chẽ hơn so với trường hợp NHTM dùng vốn của chủ sở hữu để đầu tư. Đối với nguồn vốn từ các chủ sở hữu, nhà nước sẽ kiểm soát chặt để đảm bảo nguồn tài chính dùng để góp vốn vào NHTM là nguồn vốn minh bạch, nguồn vốn “sạch”, không phải là để phục vụ cho việc rửa tiền của các tổ chức phạm tội, không phải là nguồn vốn có được từ việc sở hữu đan xen giữa các NHTM, để cơ cấu thành viên được rõ ràng, đáng tin cậy, để năng lực tài chính của NHTM được nâng cao.
Luận án về cơ bản đã giải quyết được các giả thuyết được nêu tại mục 1.4.2 và thể hiện ở các ý chính sau:
Thứ nhất: từ hai hoạt động sử dụng vốn chính của NHTM là cấp tín dụng và đầu tư, luận án đưa ra khái niệm về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM: Hoạt động sử dụng vốn của NHTM là những hoạt động phân bổ nguồn vốn của NHTM để thực hiện hai hoạt động chính là đầu tư, cấp tín dụng và không bao gồm các hoạt động cung ứng dịch vụ nhằm thu phí dịch vụ. Từ đó, luận án đưa ra nhận định pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM là toàn bộ các QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh từ việc sử dụng nguồn vốn của các NHTM thông qua hai hoạt động chính là đầu tư và cấp tín dụng.
Thứ hai: Hình thức pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM ở Việt Nam hiện còn chưa đầy đủ. Chính vì vậy, chúng ta cần phải hoàn thiện hình thức pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM bằng cách bổ sung thêm nhiều án lệ có liên quan. Trên thế giới, bên cạnh các QPPL do nhà nước ban hành còn có các quy phạm do nhà nước công nhận từ các án lệ thông qua hoạt động trao quyền cho tòa án xét xử. Tuy nhiên, các án lệ của Việt Nam hiện nay vẫn còn mang nặng tính định hướng xét xử do án lệ vẫn còn do Tòa án nhân dân tối cao chọn lựa và công bố, chưa thực sự là hoạt động xét xử của các thẩm phán để tạo ra các án lệ. Vấn đề này cần được nghiên cứu và thay đổi theo thời gian.
Thứ ba: Pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM ngoài một số thành tựu đã đạt được vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, cần được hoàn thiện và học hỏi thêm kinh nghiệm của các quốc gia khác trên thế giới.
Việc tham khảo kinh nghiệm của một số quốc gia đã cung cấp một cách nhìn khác về các vấn đề liên quan đến pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM Việt Nam. Các quốc gia có liên quan là Trung Quốc (bộ tiêu chuẩn về NH xanh, đầu tư kinh doanh trai phiếu, các khoản vay liên NH bị cấm dùng để đầu tư và cho vay để tạo lập các tài sản cố định), Ấn Độ (không cấm cấp tín dụng cho các chủ thể là người quản lý tại các NHTM nơi mà họ đang trực tiếp thực hiện việc quản lý, đã sử dụng công cụ hạn mức tín dụng hay chính sách cho vay lĩnh vực ưu tiên như một công cụ chính trong việc hướng dòng chảy tín dụng vào những lĩnh vực ưu tiên cụ thể của từng thời kỳ), của Mỹ (các NH đầu tư ở Mỹ không bị khống chế tỷ lệ cho vay chứng khoán trên vốn điều
lệ, nhưng phải tuân thủ quy định cho vay giao dịch ký quỹ (margin) chứng khoán là 50% thị giá chứng khoán niêm yết.
So với nhiều quốc gia có hệ thống pháp luật về NH khá chặt chẽ (ví dụ ở Mỹ và Thụy Sĩ, Trung Quốc), Việt Nam vẫn còn có những hạn chế nhất định trong các quy định pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM. Xuất phát từ những bất cập về hoạt động sử dụng vốn của NHTM, pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM, nghiên cứu sinh đã có một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM. Các phân tích và kiến nghị được trình bày trên cơ sở 2 nội dung: các nghiên cứu và kiến nghị trong luận án đã bám sát chính sách về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM trong bối cảnh và tình hình mới; chủ trương của Đảng và nguyên tắc chung của pháp luật Việt Nam.
Thứ tư: Pháp luật điều chỉnh hoạt động sử dụng vốn của các NHTM ở Việt Nam hiện chưa phù hợp các nguyên tắc kinh tế, nguyên tắc pháp luật để đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế và xu thế hội nhập quốc tế.
Luận án được thực hiện theo hướng phân tích các nguyên tắc, mục đích, thực trạng sử dụng vốn của các NHTM và kinh nghiệm pháp lý từ một số quốc gia liên quan đến điều chỉnh hoạt động sử dụng vốn để đưa ra các kiến nghị, giải pháp sửa đổi các văn bản pháp luật thực định của Việt Nam.
Pháp luật quy định về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM chỉ thực sự hiệu quả khi kết hợp với việc giải quyết bài toán đầu ra cho các NHTM. Cụ thể, đó là việc giải quyết việc hấp thụ vốn của nền kinh tế, đặc biệt là khả năng tiếp cận vốn của các chủ thể kinh doanh. Việc này được thực hiện đồng bộ của nhiều giải pháp, trong đó có yếu tố lãi suất hợp lý để các chủ thể trong nền kinh tế tăng cường khả năng hấp thụ vốn của các NHTM.
Thứ năm: pháp luật điều chỉnh hoạt động sử dụng vốn của các NHTM hiện mang nặng tính chất can thiệp về mặt hành chính.
Về tổng thể, nhà nước Việt Nam nói chung, NHNN nói riêng nên thay đổi cách thức quản lý đối với các NHTM: từ cơ chế quản lý về mặt hành chính chuyển sang cơ chế đề ra các quy định cụ thể để các NHTM chủ động trong việc vận hành và quản lý hoạt động sử dụng vốn.
Thứ sáu: quy định hiện hành về hoạt động sử dụng vốn của NHTM phải đáp ứng được yêu cầu hài hòa lợi ích giữa nhà nước, người dân, các NHTM và cổ đông, thành viên của NHTM. Các lợi ích được đề cập không hẳn lúc nào cũng là những lợi ích vật chất mà còn là sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Pháp luật về hoạt động sử dụng vốn phải đảm bảo hạn chế và giảm thiểu được rủi ro cho các NHTM. Rủi ro không thể bị loại trừ nhưng có thể được giảm thiểu.
Thứ bảy: pháp luật Việt Nam hiện nay còn can thiệp quá sâu vào hoạt động sử dụng vốn của các NHTM.
Pháp luật Việt Nam không nên can thiệp sâu vào hoạt động sử dụng vốn của các NHTM theo hướng giải quyết sự vụ mà chuyển sang chức năng giám sát, kiểm soát, hậu kiểm đối với các hoạt động này của các NHTM. Đối với một số giới hạn trong hoạt động sử dụng vốn của NHTM, nhà nước nên thực sự trao nhiệm vụ cho các NHTM trong việc chủ động đặt ra các giới hạn thông qua các quy định nội bộ của NHTM. Lúc đó, hoạt động quản lý của nhà nước mới thực sự là ở tầm vĩ mô và các NHTM được chủ động, linh hoạt trong hoạt động kinh doanh phù hợp với đặc thù của từng NHTM.
Thứ tám, trong chương 2, nghiên cứu sinh đã dùng lý thuyết về tự do kinh doanh, tự do HĐ để phân tích về hoạt động sử dụng vốn của NHTM. Từ đó, nghiên cứu sinh kết luận rằng, tự do kinh doanh, tự do HĐ trong hoạt động NH của các NHTM hoàn toàn khác với các ngành nghề khác. Các hoạt động NH của NHTM chỉ giới hạn trong Giấy phép, văn bản chấp thuận của NHNN cấp cho các NHTM.
Thứ chín, kế thừa các công trình nghiên cứu trước đây về quyền tự do kinh doanh, về giới hạn sự can thiệp của nhà nước khi điều tiết nền kinh tế, về đánh giá hiệu quả pháp luật, nghiên cứu sinh đã đánh giá các bất cập và đề xuất các giải pháp đề hoàn thiện pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM.
Thứ mười, kinh nghiệm pháp lý ở nước ngoài về hoạt động sử dụng vốn của NHTM phục vụ cho việc tham khảo khi xây dựng pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM ở Việt Nam. Tuy nhiên, các kinh nghiệm lập pháp của các nước không phải lúc nào cũng phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Chính vì vậy, chúng cần được chọn lọc cho phù hợp. Các gợi ý liên quan đến chứng khoán hóa là gợi ý hay nhưng chưa thể được áp dụng tại Việt Nam ít nhất là ở giai đoạn hiện nay vì lý do như đã phân tích trong luận án.
Thứ mười một, để kiểm soát dòng vốn tín dụng vào lĩnh vực BĐS nhiều rủi ro, nhà nước phải tiến hành một cách đồng bộ các giải pháp về kinh tế, pháp lý nói chung, về thuế, về chính sách đối với BĐS, chính sách tín dụng.
Thứ mười hai, luận án đã nêu ra các tiêu chí cần thiết để làm cơ sở cho việc “chấp thuận trước” của NHNN đối với các hoạt động góp vốn, mua cổ phần của NHTM trong một số doanh nghiệp kinh doanh các lĩnh vực khác ngoài những lĩnh vực mà Luật các TCTD đã quy định.
Tựu trung lại, toàn bộ nội dung luận án đã tập trung đã lý giải câu hỏi nghiên cứu chính là tại sao cần có khung pháp luật phù hợp với các nguyên tắc kinh tế, pháp luật để điều chỉnh hoạt động sử dụng vốn của NHTM ở Việt Nam. Theo đó, các quy định pháp luật, dù ở hình thức nào, cũng phải phù hợp với các nguyên tắc kinh tế, pháp luật và thực tiễn hoạt động NH ở Việt Nam thì mới kích thích nền kinh tế nói chung, hoạt động
NH nói riêng được hiệu quả. Trên cơ sở áp dụng phương pháp so sánh pháp lý được giới thiệu ở mục 1.4.4, nghiên cứu đã nghiên cứu một số án lệ ở nước ngoài được liệt kê trong luận án và gợi ý là có giá trị tham khảo thực sự cho tòa án Việt Nam.