Chế Tài Cho Các Hành Vi Vi Phạm Quy Định Về Hoạt Động Sử Dụng Vốn Để Đầu Tư Của Nhtm

Dịch vụ trung gian thanh toán, thông tin tín dụng

Bảo hiểm, chứng khoán,

Kiều hối, kinh doanh ngoại hối, cấp tín dụng

Không phải trong lĩnh vực tại điểm a khoản 4 Điều 103 Luật các TCTD năm 2010

Phải được NHNN chấp nhận bằng văn bản

89

Thành lập, mua lại cty

Sử dụng vốn để đầu tư của NHTM (tính theo lĩnh vực)

Lĩnh vực khác

Góp vốn, mua cổ phần


Cho thuê tài tài chính

Kinh doanh bảo hiểm

Liên quan hoạt động chứng khoán

Kinh doanh bất động sản

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 176 trang tài liệu này.

Pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng thương mại Việt Nam - 12

3.4. Chế tài cho các hành vi vi phạm quy định về hoạt động sử dụng vốn để đầu tư của NHTM

Việc vi phạm quy định về đầu tư của các NHTM đã từng xảy ra. Trường hợp của VCB là ví dụ gần nhất cho tình trạng vi phạm này. Theo thông báo kết luận của Thanh tra Chính phủ về việc chấp hành chính sách pháp luật, VCB đã có một số khuyết điểm:

(i) vi phạm trong hoạt động đầu tư như chậm thoái vốn tại những doanh nghiệp ngoài ngành, lĩnh vực và những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, (ii) việc đầu tư của VCB chưa tương xứng với việc tăng vốn đầu tư trong giai đoạn 2014-2015; (iii) vi phạm về quy trình, nội dung đầu tư. Trong hoạt động đầu tư tài chính, VCB cũng phạm vào hàng loạt các vi phạm như việc góp vốn, mua cổ phần của VCB chưa hoàn toàn phù hợp với những quy định của NHNN. VCB có cổ phần sở hữu tại doanh nghiệp Gentraco (từ tháng 7/2006 đến tháng 10/2014) và TCTD là NH TMCP Quân đội (từ năm 1994), nhưng doanh nghiệp này lại là cổ đông của VCB và công ty con của TCTD là cổ đông của VCB (Gentraco từ tháng 07/ 2010175 và VCBS từ 7/2006, MBS từ 10/2013) (Xem phụ lục số 6).

Như vậy, VCB và các doanh nghiệp đã vi phạm các quy định tại khoản 5 Điều 129 Luật các TCTD năm 2010176, khoản 2 Điều 135 Luật các TCTD năm 2010177 và khoản 5 Điều 18 Thông tư 36/2015/TT-NHNN178. Cho đến nay, các vi phạm này của VCB chủ yếu được xử lý theo hướng kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Thống đốc NHNN kiểm điểm các chủ thể có liên quan đến vi phạm; kiến nghị NHNN kiểm điểm các chủ thể có liên quan; kiến nghị VCB chấn chỉnh công tác đầu tư tài chính, rà soát và điều chỉnh việc góp vốn, mua cổ phần cho phù hợp với quy định tại Điều 129, Điều 135 Luật các TCTD năm 2010 và Điều 18 Thông tư 36/2015/TT-NHNN. Các chế tài chỉ mới dùng ở các nội dung trên là do mức độ vi phạm chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, VCB đã chủ động phát hiện thông qua hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ, kịp thời có các biện pháp khắc phục, chấn chỉnh và xử lý nghiêm túc theo yêu cầu của NHNN và Chính phủ.

Trong khi đó, việc xử lý vi phạm các quy định về hoạt động sử dụng vốn đế đầu tư của NHTM đã được quy định trong các Bộ luật hình sự. Tội danh “Cố ý làm trái các quy định về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” trong BLHS năm 1999 vì nội


175 Thanh tra Chính phủ (2017), Thông báo số 3216/TB-TTCP, “Kết luận thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam”, ngày 29-12-2017

176 TCTD không được góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp, TCTD khác là cổ đông, thành viên góp vốn

của chính TCTD đó

177 Công ty con, công ty liên kết của một TCTD không được góp vốn, mua cổ phần của chính TCTD đó

178 NHTM, công ty tài chính không được góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp, TCTD khác là cổ đông, thành viên góp vốn của chính NHTM, công ty tài chính đó; không được góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp, TCTD khác là người có liên quan của cổ đông lớn, của người quản lý của NHTM, công ty tài chính đó

hàm quá rộng dẫn đến sự mơ hồ nên đã bị thay thế bởi Điều 206 Bộ luật hình sự 2015179 “Tội vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài”. Sau đó, Bộ luật hình sự sửa đổi BLHS năm 2015 (sau đây gọi tắt là BLHS năm 2017) sửa lại thành “Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng”.

Điều 206 BLHS năm 2017 đã liệt kê các hành vi liên quan đến hoạt động sử dụng vốn để đầu tư sau đây mà gây thiệt hại về tài sản sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự: (i) vi phạm quy định của pháp luật về góp vốn, giới hạn góp vốn, mua cổ phần; (ii) kinh doanh vàng trái phép hoặc kinh doanh ngoại hối trái phép; (iii) tiến hành hoạt động NH khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của Luật NHNN Việt Nam và Luật các TCTD. Các hình phạt cho hành vi này khi gây thiệt hại cho người khác về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng là bị phạt tiền từ

50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. BLHS năm 1999 trước đây không có quy định liên quan đến việc kinh doanh vàng, kinh doanh vàng trên tài khoản. BLHS năm 2015 có quy định về tội cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng máy tính, mạng viễn thông. Theo đó kinh doanh vàng trên tài khoản trên mạng máy tính, mạng viễn thông mà không có giấy phép hoặc không đúng nội dung được cấp phép là một dấu hiệu khách quan của tôi cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng máy tính, mạng viễn thông. BLHS năm 2017 đưa hành vi kinh doanh vàng trái phép hoặc kinh doanh ngoại hối trái phép vào phần liệt kê tại Điều 2016 là do hoạt đông kinh doanh vàng và kinh doanh ngoại hối phải được chấp thuận bằng Giấy phép của NHNN.

Điều 206 BLHS năm 2017 quy định sẽ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi tiến hành hoạt động NH khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. Trên thực tế, đã có một số vụ án trong lĩnh vực NH được đem ra xét xử có liên quan đến cụm từ “tiến hành hoạt động ngân hàng khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép”, liên quan đến Khoản 2 Điều 90 Luật các TCTD năm 2010. Trong vụ án liên quan đến bị cáo Nguyễn Đức Kiên, cáo trạng đã xác định “lợi dụng vai trò chỉ đạo, chi phối toàn bộ hoạt động quản trị điều hành NH ACB, Nguyễn Đức Kiên và các đồng phạm đã thực hiện các hành vi phạm tội”, trong đó có hành vi kinh doanh vàng trái phép thông qua công ty cổ phần phát triển sản xuất và Xuất nhập khẩu Thiên Nam180. Về mặt bối cảnh pháp lý trong lĩnh vực tài chính NH, theo lý giải của tác giả Bùi Quang Tín và Phan Diên Vĩ (2014), trong suốt thời gian 3 năm sàn vàng hoạt động, NHNN đã không có một văn bản pháp lý nào để kiểm soát hoạt động kinh doanh trên sàn vàng181. Về bối


179 Lưu ý là BLHS 2015 không có hiệu lực theo Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29-6-2016

180 Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2013), Cáo trạng số 02/ VKSTC-V1 ngày 12-12-2013, tr.3,4,5,6,7,8,9,10,11

181 Bùi Quang Tín, Phan Diên Vĩ (2014), Quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối, Nxb Kinh tế TP.HCM, tr.133

cảnh pháp lý trong lĩnh vực hình sự, hành vi trên của bị cáo Nguyễn Đức Kiên và các đồng phạm diễn ra trước khi BLHS năm 2015, BLHS năm 2017 ra đời.

3.5. Các bất cập và kiến nghị về pháp luật liên quan đến hoạt động sử dụng vốn của NHTM thông qua hoạt động đầu tư.

Xuất phát từ các nguyên tắc được đề cập ở chương 2 và đặc thù của pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM để đầu tư, việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM thông qua việc đầu tư phải theo các định hướng sau đây: Hài hòa lợi ích của các bên trong quan hệ đầu tư; Phải giúp giảm thiểu rủi ro đồng vốn của NHTM; Phải đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của nền kinh tế; Phải phù hợp với chính sách của Đảng và nhà nước; Phải giúp loại trừ tình trạng vốn ảo và sở hữu chéo của các NHTM; Phải đảm bảo quyền tự do kinh doanh, giao kết HĐ trong khuôn khổ pháp luật.

3.5.1. Các bất cập và kiến nghị liên quan đến quy định pháp luật nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng thương mại để đầu tư

Thứ nhất là các bất cập và kiến nghị liên quan cơ cấu đầu tư của các NHTM: Luật các TCTD năm 2010 nên sửa đổi theo hướng sử dụng lại Điều 83 Luật các TCTD năm 1997: TCTD không được trực tiếp kinh doanh BĐS. Từ đó, để kinh doanh BĐS hàng loạt công ty con của các TCTD ra đời để gián tiếp kinh doanh BĐS. Nhưng sau này, Điều 132 Luật các TCTD năm 2010 quy định TCTD không được kinh doanh BĐS, trừ các trường hợp như: (i) mua, đầu tư, sở hữu BĐS để sử dụng làm trụ sở kinh doanh, địa điểm làm việc hoặc cơ sở kho tàng phục vụ trực tiếp cho các hoạt động nghiệp vụ của TCTD; (ii) cho thuê một phần trụ sở kinh doanh chưa sử dụng hết, thuộc sở hữu của TCTD; (iii) nắm giữ BĐS do việc xử lý nợ vay. Trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày quyết định xử lý tài sản bảo đảm là BĐS, TCTD phải bán, chuyển nhượng hoặc mua lại BĐS này để bảo đảm tỷ lệ đầu tư vào tài sản cố định và mục đích sử dụng tài sản cố

định theo quy định.

Với quy định trên, chúng ta hiểu là NHTM chỉ được kinh doanh BĐS trong các trường hợp ngoại lệ đã được nêu. Các quy định trên cho thấy các hoạt động được liệt kê trên ở một góc độ nào đó chưa thật sự là hoạt động kinh doanh mua bán hoặc giao dịch chuyển nhượng BĐS hàng ngày để kiếm lợi nhuận của TCTD mà chủ yếu chỉ là hoạt động mang tính hỗ trợ kinh doanh trong ngành nghề chính (như mua, sở hữu BĐS để làm trụ sở kinh doanh, địa điểm làm việc hoặc kho hàng cho TCTD) hoặc mang tính tình thế (như xử lý nợ vay tại TCTD, cho thuê một phần trụ sở kinh doanh chưa sử dụng hết). Rõ ràng, những liệt kê vừa nêu chưa đủ điều kiện để gọi là kinh doanh BĐS theo Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014182. Theo Khoản 1, Điều 3 luật này, kinh doanh


182 Luật số 66/2014/QH13, ban hành 25-11-2014, hiệu lực 01-7-2015

BĐS là việc đầu tư vốn để thực hiện hoạt động xây dựng, mua, nhận chuyển nhượng để bán, chuyển nhượng; cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua BĐS; thực hiện dịch vụ môi giới BĐS; dịch vụ sàn giao dịch BĐS; dịch vụ tư vấn BĐS hoặc quản lý BĐS nhằm mục đích sinh lợi. Nghĩa là với các trường hợp ngoại lệ đã được nêu, NHTM chưa thực sự là đầu tư vốn để để thực hiện các giao dịch liên quan đến BĐS mà chỉ là các biện pháp xử lý và tích lũy tài sản. Bởi nếu được kinh doanh BĐS thực sự, NHTM phải đăng ký kinh doanh với chức năng đó và đó phải là hoạt động kinh doanh hàng ngày của chính NHTM, chứ không phải thông qua công ty con hay khi cần bán, chuyển nhượng BĐS đó. Trong khi theo quy định, những hoạt động kể trên của NHTM không phải đăng ký kinh doanh mà như là một hoạt động bổ trợ cho hoạt động kinh doanh truyền thống của NHTM.

Quy định này của Việt Nam có những nét chính tương đồng với quy định của Mỹ. Theo Bộ luật của Mỹ tại 12 U.S.C §29 về quyền nắm giữ BĐS, NH không được nắm giữ BĐS dưới dạng đầu tư nhưng được dưới hình thức là tài sản đảm bảo và dưới dạng là văn phòng làm việc. NH quốc gia và NH thành viên cấp bang phải bán tài sản đảm bảo đó trong vòng 5 năm, trừ trướng hợp có quy định khác ở phần này183.

Bên cạnh đó, Điều 11 Luật kinh doanh bất động sản năm 2014 đã quy định rõ tổ chức, cá nhân trong nước được kinh doanh BĐS dưới các 9 hình thức. So với quy định tại Điều 132 Luật các TCTD năm 2010 thì quy định tại Điều 11 Luật kinh doanh bất động sản 2014 mới thực sự chính là kinh doanh BĐS. Bên cạnh đó, Điều 10 của luật này còn quy định tổ chức, cá nhân kinh doanh BĐS phải thành lập doanh nghiệp hoặc HTX và có vốn pháp định không được thấp hơn 20 tỷ đồng.

Việc NHTM bị cấm kinh doanh BĐS ở Điều 132 Luật các TCTD năm 2010 xuất phát từ lý do đây là lĩnh vực quá rủi ro cho các NHTM. Giá BĐS ở Việt Nam không ổn định, không phản ánh đúng giá trị thật của quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà. Tại Việt Nam, do có hiện tượng đầu cơ, mua đi bán lại để hưởng chênh lệch trong lĩnh vực BĐS nên nhiều trường hợp giá BĐS bị “thổi phồng” lên nên kinh doanh trực tiếp BĐS sẽ mang đến rủi ro cao cho NH. Ở các nước, việc sở hữu nhiều BĐS sẽ bị đánh thuế nên hiện tượng đầu cơ bất động sản không nhiều như ở Việt Nam, chủ sở hữu nhà, người có quyền sử dụng đất và sở hữu nhà ở nước ngoài phần lớn là sử dụng quyền tài sản đó để phục vụ cho nhu cầu có nơi ăn, chốn ở, không phải chủ yếu là để đầu cơ như ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, tại các nước phát triển, nguồn cung vốn chủ yếu cho thị trường



183 A national banking association may purchase, hold, and convey real estate for the following purposes, and for no others: First. Such as shall be necessary for its accommodation in the transaction of its business. Second. Such as shall be mortgaged to it in good faith by way of security for debts previously contracted. But no such association shall hold the possession of any real estate under mortgage, or the title and possession of any real estate purchased to secure any debts due to it, for a longer period than five years except as otherwise provided in this section

BĐS đến từ các quỹ đầu tư và thị trường chứng khoán, nguồn vốn tín dụng NH chủ yếu phục vụ cho nhu cầu mua nhà để ở, không phải để kinh doanh BĐS184.

Luật các TCTD năm 2010 chưa làm rõ quy định về việc kinh doanh BĐS của NHTM. Chính vì vậy, việc quay lại quy định trước đây tại Điều 73 của Luật các TCTD năm 1997 là cần thiết “Tổ chức tín dụng không được trực tiếp kinh doanh bất động sản”.

Thứ hai là bất cập và kiến nghị liên quan đến ủy thác, nhận ủy thác của tổ chức tín dụng

Khoản 3 Điều 9 của Thông tư số 30/2014/TT-NHNN185, quy định về ủy thác, nhận ủy thác của TCTD, Theo đó, NHTM không được ủy thác, nhận ủy thác góp vốn, mua cổ phần đối với các đối tượng ủy thác thuộc các trường hợp không được góp vốn, mua cổ phần quy định tại khoản 5 Điều 129 Luật các TCTD năm 2010. Đây là QPPL cấm đoán. Tuy nhiên, QPPL cấm đoán này bị xem là thừa vì về nguyên tắc khi một chủ thể không có thẩm quyền thực hiện một việc cụ thể nào đó thì chủ thể này cũng không thể được ủy thác để thực hiện công việc đó hay ủy thác cho chủ thể khác thực hiện công việc đó. Chúng ta cần loại bỏ các quy định không cần thiết do đã có nguyên tắc chung liên quan.

3.5.2. Các bất cập và kiến nghị liên nhằm hoàn thiện pháp luật liên quan đến các lĩnh vực đầu tư của ngân hàng thương mại

Thứ nhất, cần có quy định rõ ràng hơn về các “lĩnh vực khác” mà các NHTM được góp vốn, mua cổ phần.

Quy định NHTM được góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác ngoài các lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán, kiều hối, kinh doanh ngoại hối, vàng, bao thanh toán, phát hành thẻ tín dụng, tín dụng tiêu dùng, dịch vụ trung gian thanh toán, thông tin tín dụng (mục b khoản 4 điều 103 Luật các TCTD năm 2010) là quy định còn khá mơ hồ. Câu hỏi được đặt ra là nếu NHTM Việt Nam muốn góp vốn, mua cổ phần trong các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực hàng không hoặc những lĩnh vực khác như vật liệu xây dựng thì có được không? Điều 107 Luật các TCTD năm 2010 chỉ đề cập đến “các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng thương mại” mà không lý giải “lĩnh vực khác” ngoài lĩnh vực nêu tại điểm a, khoản 4 Điều 103 Luật các TCTC năm 2010 là những lĩnh vực nào. Bên cạnh đó, Điều 103 Luật các TCTD năm 2010 cũng không dẫn chiếu đến việc Điều 107 là sự giải thích cho điểm b khoản 4 Điều 103 Luật các TCTD năm 2010. Tuy còn mơ hồ thế nào là “lĩnh vực khác” tại điểm b khoản 4 Điều 103 nhưng khoản 5 Điều 103 đã tạo ra một “chốt chặn” là cần có sự chấp thuận trước



184 Lê Anh (2018), Chưa cần thiết giảm nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung hạn và dài hạn, https://www.thesaigontimes.vn/279318/chua-can-thiet-giam-nguon-von-ngan-han-de-cho-vay-trung-han-va-dai- han.html, đăng ngày 27-09-2018, truy cập ngày 27-09-2018

185 Được ban hành ngày 06-11-2014, hiệu lực 01-01-2015

bằng văn bản của NHNN. Quy định tại khoản 5 Điều 103 đã cho thấy sự khác nhau giữa việc NHTM góp vốn, mua cổ phẩn tại điểm a khoản 4 Điều 103 và việc NHTM góp vốn, mua cổ phần trong doanh nghiệp thuộc “lĩnh vực khác”. Tuy có sự khác nhau giữa Điều 103 Luật các TCTD năm 2010 (về góp vốn, mua cổ phần của NHTM) và Điều 107 Luật các TCTD năm 2010 (về hoạt động kinh doanh khác của NHTM) nhưng vẫn có một điểm chung là NHTM có thể kinh doanh vàng lẫn góp vốn, mua cổ phần trong doanh nghiệp kinh doanh vàng; “lĩnh vực khác” hoặc “hoạt động kinh doanh khác” đều phải được NHNN chấp thuận trước bằng văn bản.

Kinh nghiệm của Mỹ cho thấy, Phần 12 U.S.C. §1843(c)(8) trong Luật về công ty sở hữu ngân hàng ban hành năm 1956 quy định NH liên bang Mỹ có thể cho phép công ty nắm giữ NH và công ty con của chúng có thể tham gia vào các hoạt động phi NH trong phạm vi những hoạt động đó liên quan rất gần gũi với hoạt động NH, hay quản lý hoặc kiểm soát NH và trở thành một hoạt động phụ trợ hợp lý cho ngành NH (“to be so closely related to banking or managing or controlling banks as to be a proper incident thereto)186. Trong một phán quyết của Tòa phúc thẩm ở hạt Columbia- 516 F.2d 1229 (D.C. Cir. 1975), từ “phụ trợ hợp lý (proper incident) cho ngành ngân hàng” được hướng dẫn là phải tạo ra lợi ích cho công chúng như là thuận tiện hơn, gia tăng cạnh tranh hay đạt hiệu quả, áp đảo được hiệu quả đối lập, như là tránh tập trung các nguồn lực không phù hợp, cạnh tranh bị giảm thiểu hay không công bằng, mâu thuẫn quyền lợi hoặc hoạt động NH không an toàn.

Có thể nói, phán quyết này là một gợi ý cho các tòa án Việt Nam khi xét xử và tạo ra các án lệ trong lĩnh vực NH. Hiện nay, các quy định của Việt Nam chỉ tập trung làm rõ các tiêu chí để được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động của NHTM. Các quy định hiện hành chưa thực sự làm rõ những doanh nghiệp kinh doanh ở “các lĩnh vực” khác, “những hoạt động liên quan đến hoạt động ngân hàng” của các NHTM là những doanh nghiệp kinh doanh ở những lĩnh vực cụ thể nào, hoạt động nào? Từ đây, nghiên cứu sinh đề xuất một vài tiêu chí để xác định cơ sở cho việc NHNN chấp thuận những “lĩnh vực khác” hoăc “hoạt động kinh doanh khác” của NHTM:

Đầu tiên, những “lĩnh vực khác” hoặc “hoạt động kinh doanh khác” của NHTM có liên quan rất gần với hoạt động NH. Do đó, những hoạt động kinh doanh như vận tải hàng không, vật liệu xây dựng không được xem là rất gần với hoạt động NH.

Kế tiếp, những “lĩnh vực khác” hoặc “hoạt động kinh doanh khác” của NHTM có liên quan đến việc quản lý hoặc kiểm soát NH và trở thành một hoạt động phụ trợ hợp lý cho ngành NH.



186 The Fed may authorize bank holding companies to hold shares of companies whose activities the Board finds “to be so closely related to banking or managing or controlling banks as to be a proper incident thereto.” 12 U.S.C.

§1843(c)(8). (https://fas.org/sgp/crs/misc/R44349.pdf)

Cuối cùng, NHTM đang xin thành lập, mua lại công ty con, công ty liện kết trong các lĩnh vực khác phải tuân thủ các quy định về phòng chống rửa tiền của Việt Nam. Cụ thể, đối tượng áp dụng của Luật phòng chống rửa tiền là tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan (Điều 2 Luật phòng chống rửa tiền năm 2012). Điều kiện này cũng là tiêu chí cần có khi các NHTM ở Việt Nam mở văn phòng đại diện hay chi nhánh của NH ở nước ngoài.

Thứ hai, Việt Nam cần nhất quán trong việc định hướng hoạt động sử dụng vốn của NHTM là có theo hướng NH đa năng/ NH đầu tư hay không.

Nước Mỹ đã có hàng loạt đạo luật ra đời và thay đổi theo thời gian có liên quan đến hoạt động sử dụng vốn của NHTM:

Ở Mỹ, trước năm 1933, các NHTM được tham gia vào hoạt động chứng khoán, bao gồm cả tự doanh và bảo lãnh phát hành. Năm 1933, Đạo luật Glass Steagall (hay còn gọi là Banking Act of 1933) ra đời trong giai đoạn của cuộc đại suy thoái, nhiều NHTM ở Mỹ bị phá sản. Chính vì vậy, Phần 20 của đạo luật này cấm bất kỳ NH thành viên nào mà có các công ty con hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực mua bán, hoặc phát hành, bảo hiểm phân phối, bán buôn hoặc bán lẻ, bảo lãnh phát hành chứng khoán hoặc tham gia vào lĩnh vực chứng khoán. Tiếp theo đó, Phần 21 của đạo luật này còn cấm các công ty có hoạt động chứng khoán không được nhận tiền gửi. Đạo luật này hướng vào việc phân định giữa NHTM và NH đầu tư. Theo nghiên cứu sinh, đây cũng là một cách để đảm bảo an toàn cho việc sử dụng vốn của NH, là cách để hạn chế rủi ro cho hệ thống NH từ việc tách biệt những ảnh hưởng tiêu cực của thị trường chứng khoán lên hoạt động NH. Theo Peter Ross (2004), việc tách biệt này xuất phát từ các lý do như lo ngại rằng một số NH vì muốn bán chứng khoán công ty mà họ bảo lãnh phát hành sẽ ép buộc khách hàng phải mua chứng khoán đó để được vay tiền tại NH hay khách hàng sử dụng chứng khoán của công ty mà NH bảo lãnh phát hành để làm tài sản bảo đảm khi vay tiền từ NH187.

Đến năm 1986, FED – Cục dữ trữ liên bang hay NH Trung ương Mỹ đã quy định lại phần 20 của Luật Glass-Steagall và cho phép các NHTM tham gia vào các hoạt động NH đầu tư nhưng để vẫn đảm bảo tuân thủ quy định của luật này thì doanh thu của hoạt động này không quá 5% doanh thu gộp của NH188.

Bức tường phân định giữa NH đầu tư và NHTM nêu trên đã dần bị suy yếu và dỡ bỏ từ sự ban hành Đạo luật về hiện đại hóa dịch vụ tài chính năm 1999 (Financial


187 Peter Ross (2004), tlđd 12, Nxb Tài chính, tr.44

188 In 1986, the Federal Reserve made a new ruling on Section 20 of the Act. It allowed securities subsidiaries of bank holding companies to underwrite and deal in certain bank ineligible securities for the first time. To comply with the Glass-Steagall concept of not “engaging primarily” in ineligible securities, the initial limits on revenues from these activities were set at no more than 5% of the subsidiary’s total gross revenues on an eight-quarter moving average basis. (Simon Kwan, Cracking the Glass-Steagall Barriers, http://www.frbsf.org/economic- research/publications/economic-letter/1997/march/cracking-the-glass-steagall-barriers)

Xem tất cả 176 trang.

Ngày đăng: 29/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí