hiện của IFC và giữa các tổ chức tài chính tham gia EP khác - những người có thể tham gia tài trợ cho cùng một dự án.
Nguyên tắc này gồm các nhóm công tác giúp xây dựng kiến thức và năng lực để phục vụ nguyên tắc cũng như phát triển các nguồn lực để hỗ trợ tất cả các tổ chức tài chính tham gia EP. Nguyên tắc này cho phép chúng tôi và các tổ chức tài chính khác quản lý rủi ro MTXH một cách có tổ chức và nhất quán. Do đó, EP có nhiều giá trị vì thông qua đó, cộng đồng các ngân hàng có lợi ích chung trong quản lý rủi ro MTXH, đồng thời có thể chia sẻ kinh nghiệm và kiến thức”.
Ngân hàng nhà nước đã ra chỉ thị 03 nhằm khuyến khích các ngân hàng thực hiện đánh giá rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động tín dụng của mình. Vì vậy, việc xem xét tham gia vào nguyên tắc xích đạo sẽ giúp các ngân hàng Việt Nam quản lý rủi ro MTXH một cách có tổ chức và nhất quán. Vừa giúp các ngân hàng thực hiện tốt các chỉ thị, chính sách về tín dụng xanh của nhà nước, vừa thể hiện được trách nhiệm xã hội của các ngân hàng trong vấn đề môi trường, trong khi vẫn bảo đảm các lợi ích về tài chính cho các ngân hàng.
Tuy nhiên, các ngân hàng Việt Nam hiện nay chỉ mới dừng lại ở mức tham khảo bộ nguyên tắc này, việc tham gia chính thức vảo nguyên tắc xích đạo sẽ rất khó khăn cho các ngân hàng ở Việt Nam khi phải bảo đảm các yêu cầu về vốn, tính công khai, minh bạch về công bố thông tin, phải đảm bảo về nhân quyền, và tránh tham gia vào các dự án gây rủi ro cao cho môi trường, trong đó có các dự án về năng lượng. Trong khi, ngành năng lượng vẫn là một ngành được khuyến khích đầu tư tại Việt Nam để phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế. Việc các ngân hàng Việt Nam vẫn đang loay hoay để tham gia đầy đủ nguyên tắc Basel II cũng khiến cho các ngân hàng khó có thể đồng thời tham gia vào nguyên tắc xích đạo với các yêu cầu về quản lý rủi ro môi trường và xã hội.
Tuy nhiên, với yêu cầu cấp thiết trong xây dựng một hệ thống tin dụng xanh như hiện nay, khi rủi ro môi trường và xã hội được quan tâm nhiều hơn từ các cơ quan nhà nước, khi chỉ thị 03/2015/CT-NHNN được ban hành. Các ngân hàng đã
có cho mình một cơ sở để tự xây dựng hệ thống đánh giá rủi ro môi trường và xã hội trong chính quy chế nội bộ của mình. Nguyên tắc xích đạo là một nguồn tài liệu các ngân hàng có thể tham khảo.
2.3.2. Một số kinh nghiệm quốc tế khác
Trong bối cảnh hiện nay của ngành ngân hàng Việt Nam với những yêu cầu cải tổ, tái cơ cấu, và bắt đầu suy nghĩ về một tương lai bền vững hơn thay vì chỉ đầu tư “ăn xổi,” việc NHNN ra một quy định chung trong toàn ngành về vấn đề trách nhiệm môi trường và xã hội có thể sẽ là một bước đà cho những ngân hàng lớn ở Việt Nam đang muốn đi tiên phong trong lĩnh vực này. Cũng theo nghiên cứu của PanNature, một rào cản đối với việc thực hiện trách nhiệm môi trường và xã hội trong hoạt động tín dụng là do một số ngân hàng lớn cũng còn e dè chưa muốn một mình đi tiên phong. Tuy nhiên, cách tiếp cận này của ngành ngân hàng Việt Nam, thông qua một quy định áp đặt từ trên xuống cũng không tránh khỏi có thể có những hạn chế cần phải cân nhắc. Những bài học từ chương trình “Chính sách Tín dụng Xanh” mà Trung Quốc đã thực hiện từ năm 2007 có thể cũng là kinh nghiệm quý cho Việt Nam. Chính sách này được ban hành vào tháng 07/2007 nhằm khuyến khích các ngân hàng Trung Quốc thực hiện cấp tín dụng cho các dự án ít gây ô nhiễm, thân thiện với môi trường hay sử dụng năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, Trung Quốc đã mất gần năm năm kể từ khi bắt đầu ra chính sách cho đến khi xây dựng được một hướng dẫn tương đối chi tiết để thực hiện chính sách này (tháng 02/2012). Trước đó, một số các nghiên cứu độc lập về việc thực hiện chính sách này đều đánh giá không cao hiệu quả của nó đối với các hoạt động thực tiễn của các ngân hàng Trung Quốc. Một trong những khó khăn lớn nhất của việc thực hiện chính sách này ở Trung Quốc là việc thiếu đi một hệ thống đánh giá đáng tin cậy về các ngành nghề và các cơ sở gây ô nhiễm môi trường để làm căn cứ cho các ngân hàng phân loại dự án, đặc biệt là khi nhiều ngành gây ô nhiễm cũng đang là những ngành mang lại lợi nhuận cao cho nhiều địa phương. Cũng theo nghiên cứu này, số cơ sở gây ô nhiễm được
đưa vào danh sách đen (và không thể vay vốn ngân hàng cho đến khi họ cải thiện được tình trạng gây ô nhiễm) được cho là quá ít so với số cơ sở bị phạt bởi Bộ Bảo vệ Môi trường Trung Quốc do gây ô nhiễm (38 so với 8.000 năm 2007). Nếu ngành ngân hàng Việt Nam đi theo con đường này, đây cũng sẽ là thách thức lớn nhất, đồng thời cũng có thể trở thành một lý do để các ngân hàng trì hoãn và né tránh việc cắt giảm tín dụng cho những ngành, những cơ sở gây ô nhiễm và ảnh hưởng đến dân sinh nhưng mang lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp và cho ngân hàng [16]
Có thể bạn quan tâm!
- Pháp luật về hoạt động cho vay của ngân hàng và vấn đề môi trường - 1
- Pháp luật về hoạt động cho vay của ngân hàng và vấn đề môi trường - 2
- Thực Trạng Pháp Luật Về Hoạt Động Cho Vay Của Các Ngân Hàng Trong Mối Quan Hệ Với Vấn Đề Môi Trường
- Thực Trạng Pháp Luật Trong Hoạt Động Cho Vay Của Ngân Hàng Cho Các Dự Án Xanh, Thân Thiện Với Môi Trường
- Pháp luật về hoạt động cho vay của ngân hàng và vấn đề môi trường - 6
Xem toàn bộ 53 trang tài liệu này.
Mỹ là một trong những nước đầu tiên trên thế giới có quy định về trách nhiệm đối với môi trường không chỉ đối với doanh nghiệp gây ô nhiễm mà còn của các bên liên quan khác, trong đó bao gồm cả ngân hàng cho vay vốn các công trình, dự án gây ô nhiễm khi thông qua Đạo luật Bồi hoàn Môi trường Toàn diện (CER- CLA) năm 1980. Mặc dù Đạo luật này có miễn trừ trách nhiệm của người cho vay (thường là các tổ chức tín dụng), nhưng những trường họp người cho vay có tham gia một mức nhất định đến việc đảm bảo an toàn môi trường, xã hội của công trình, dự án gây ô nhiễm thì cũng phải nộp phạt một khoản phí không nhỏ.
Năm 1990, tập đoàn tài chính Fleet Factors đã bị tòa án Mỹ ra phán quyết phải thực hiện bồi hoàn môi trường do đầu tư và có liên đới trực tiếp đến một công trình gây ô nhiễm. Đây là một vụ kiện kinh điển trong ngành tài chính Mỹ, và mặc dù gây nhiều tranh cãi vẫn khiến cho các tổ chức tín dụng sau đó phải nghiêm túc tính toán đến những rủi ro môi trường khi cho vay vốn. Bên cạnh đó, những quy định nghiêm ngặt của CERCLA về bồi hoàn môi trường cũng tác động gián tiếp đến các ngân hàng vì nếu phải bồi hoàn môi trường thì chủ đầu tư dự án sẽ mất khả năng trả nợ cho ngân hàng. Viện Quốc tế về Phát triển Bền vững (IISD) dẫn kết quả một cuộc điều tra của Hiệp hội Ngân hàng Mỹ cho biết sau vụ Fleet Factors, 63% ngân hàng ở Mỹ đã từ chối cấp vốn cho các dự án mà họ cho là có rủi ro về môi trường và 46% trong số các ngân hàng này đã quyết định chấm dứt tài trợ cho một số ngành hay gây ô nhiễm môi trường [8,24]
Tại châu Âu, năm 1989, Ủy ban Châu Âu (EC) đưa ra một bản dự thảo Chỉ thị về Trách nhiệm Dân sự đối với những tổn hại do rác thải. Tuy nhiên, đến năm 2004, Chỉ thị này mới được chính thức đưa ra sau khi EC thu hẹp bớt những quy định về người chịu trách nhiệm với cơ sở gây ô nhiễm do các ngân hàng châu Âu lo ngại đây sẽ trở thành một CERCLA thứ hai. Sau khi Chỉ thị này có hiệu lực (từ tháng 4/2004), các nước thành viên của EC có ba năm để xây dựng luật tại quốc gia mình. Tuy nhiên, đến tháng 07/2010 việc này mới được hoàn tất nên đánh giá về hiệu quả thực hiện còn hạn chế.
Các chính sách và pháp luật mà các quốc gia và tổ chức trên sử dụng đều có tính hiệu quả và hạn chế riêng. Việc tham khảo, sàng lọc và áp dụng một cách phù hợp vào tình hình thực tiễn tại Việt Nam sẽ đem lại những hiệu quả tốt hơn. Bắt buộc hay tự nguyện đều có những ưu, nhược điểm của nó. Việc phân loại các quy định bắt buộc hay tự nguyện vào những trường hợp cụ thể là rất cần thiết.
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động cho vay của các ngân hàng và vấn đề môi trường
3.1. Xây dựng, ban hành hệ thống đánh giá rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cho vay của các ngân hàng
Chỉ thị 03/2015 của ngân hàng nhà nước đã đem lại một nguồn gió mới cho hoạt động xây dựng tín dụng xanh ở Việt Nam. Tuy nhiên, để chỉ thị đi vào thực tiễn hoạt động của các ngân hàng cần có những quy định chi tiết, rò ràng và dễ áp dụng đối với các ngân hàng. Ngân hàng thế giới đã đưa ra khung chính sách môi trường và xã hội (MT&XH) nhằm giúp đỡ và hướng dẫn các quốc gia và ngân hàng trên thế giới xây dựng được một hệ thống chính sách và pháp luật để xây dựng hệ thống tín dụng xanh phù hợp với thông lệ quốc tế và cả pháp luật quốc gia.
Tại Việt Nam, ngân hàng nhà nước cũng đã hợp tác với Tổ chức tài chính IFC nhằm mục đích xây dựng hệ thống đánh giá rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng.
Theo hướng dẫn của IFC (2010) [7,19-28], kinh nghiệm quản lý rủi ro môi trường đối với hoạt động tín dụng của các tổ chức tài chính có sự tương đồng nhất định. Quản lý rủi ro môi trường có thể được chia thành 4 giai đoạn chính:
(i) Sàng lọc môi trường, (ii) Thẩm định các rủi ro môi trường, (iii) Kiểm soát các rủi ro môi trường và (iv) Giám sát và báo cáo về các rủi ro môi trường.
Sàng lọc môi trường: Được thực hiện ngay sau khi các tổ chức tài chính nhận được hồ sơ đề nghị cấp tín dụng. Mục tiêu chính của nội dung này là xác định mức độ rủi ro đối với ngân hàng. Căn cứ vào danh mục các hoạt động kinh doanh rủi ro và các hướng dẫn có liên quan, dự án sẽ được xếp loại theo mức độ rủi ro (cao, vừa hoặc thấp).
Thẩm định các vấn đề môi trường: Được thực hiện dựa trên các hướng dẫn cụ thể đối với từng ngành sản xuất, các thông tin tổng quan về môi trường của dự án và các thông tin thu thập được từ khảo sát thực địa. Mục tiêu của các nội dung này là thu thập đầy đủ thông tin đến hiểu rò tất cả các rủi ro, mức độ nhận thức, tính cam kết và nguồn lực của chủ dự án để quản lý các vấn đề môi trường. Trong trường hợp, rủi ro ở mức thấp, ngân hàng có thể tiến hành cung cấp tín dụng cho chủ dự án. Trong trường hợp có một vài rủi ro được xác định, cần xác định và thống nhất với chủ dự án về các cơ chế kiểm soát rủi ro trước khi cấp tín dụng. Trong trường hợp, rủi ro nghiêm trọng được xác định, ngân hàng có thể xem xét từ chối cấp tín dụng.
Kiểm soát các rủi ro môi trường: Được thực hiện nhằm đảm bảo chủ dự án thực hiện đầy đủ các giải pháp kiểm soát rủi ro đã thống nhất. Trong quá trình này, ngân hàng và chủ dự án cần phải thống nhất và ký kết biên bản giao kèo về trách nhiệm quản lý môi trường cũng như chế độ báo cáo của chủ dự án.
Giám sát môi trường: Được thực hiện với mục tiêu giám sát tình hình thực hiện các cam kết và chế độ báo cáo của chủ dự án.
Bên cạnh các hướng dẫn của IFC, các ngân hàng tại Việt Nam có thể tham khảo các quy định về đánh giá rủi ro môi trường và xã hội trong nguyên tắc Xích
đạo, hay Khung môi trường và xã hội của Ngân hàng thế giới. Các hướng dẫn này được ban hành chung cho hệ thống ngân hàng của thế giới, và thường được các ngân hàng lớn, các ngân hàng đã có hệ thống quản trị ngân hàng khá đầy đủ cũng như đảm bảo được các yêu cầu về vốn, về tính công khai, minh bạch sử dụng. Trong khi các ngân hàng tại Việt Nam vẫn đang nổ lực để tham gia đầy đủ tiêu chuẩn Basel II, nhằm hướng tới một hệ thống ngân hàng có quản trị hiệu quả, tăng cường tính công khai minh bạch và đảm bảo về vốn để sử dụng trong các trường hợp rủi ro. Tuy nhiên, rủi ro môi trường và xã hội cũng là một trong những rủi ro tín dụng mà ngân hàng có thể gặp phải trong hoạt động của mình. Việc có một hệ thống đánh giá rủi ro môi trường và xã hội phù hợp, hiệu quả không những thể hiện được vai trò của các ngân hàng đối với vấn đề môi trường mà còn đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng của chính bản thân các ngân hàng.
Quy định của pháp luật muốn đi vào thực tiễn cần có sự tự giác và nhận thức từ chính các ngân hàng. Vì vậy, tuyên truyền, nâng cao ý thức của các ngân hàng trong vấn đề bảo vệ môi trường là một biện pháp bổ sung thiết thực để các quy định pháp luật đi vào hoạt động cho vay của các ngân hàng.
3.2. Tuyên truyền, nâng cao ý thức của các ngân hàng trong vấn đề bảo vệ môi trường
Nâng cao nhận thức của lãnh đạo ngân hàng
Đây là việc làm đầu tiên và khả thi nhất, khi mà hầu hết lãnh đạo ngân hàng đều có kinh nghiệm quản trị ngân hàng hiện đại, đa năng, song nhận thức chưa thực sự đầy đủ về rủi ro môi trường trong hoạt động tín dụng. Cũng có thể trong giai đoạn tái cấu trúc mạnh mẽ ngân hàng vừa qua, các ngân hàng tập trung vào việc xử lý nợ xấu, đảm bảo thanh khoản để phát triển ổn định nên chưa thực sự quan tâm một cách đầy đủ đến vai trò của tín dụng xanh đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế. .
Quảng bá, tuyên truyền, giáo dục cho khách hàng của ngân hàng về lợi ích của tín dụng xanh
Một trong những lợi ích lớn nhất mà tín dụng xanh mang lại là góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế, thúc đẩy các ngành sản xuất kinh doanh xanh phát triển, hỗ trợ thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh của nền kinh tế. Không ai khác, ngoài các doanh nghiệp, khách hàng của ngân hàng chính là cầu nối để mang tín dụng xanh đến nền kinh tế qua các hoạt động đầu tư xanh của mình. Chính vì vậy, việc quảng bá, tuyên truyền, thậm chí giáo dục cho các doanh nghiệp về tác động dài hạn của sản xuất xanh, đầu tư xanh có tác động trực tiếp, giải quyết được đầu ra cho các khoản tín dụng xanh của ngân hàng. Ngân hàng sẵn sàng cung cấp các dịch vụ tín dụng xanh mà không có các doanh nghiệp - người vay hấp thụ vốn thì tín dụng xanh cũng chỉ là các chính sách và kế hoạch trên giấy.
Bên cạnh đó, các ngân hàng nên xem xét các khía cạnh dưới đây khi cho vay với một dự án:
- Phân tích các dự án trên cơ sở quy mô, bản chất và cường độ của các tác động đến môi trường. Dự án có thể được đánh giá trên cơ sở các hiệu ứng tích cực và tiêu cực tiềm tàng và sau đó so sánh với tình huống giả định không có dự án.
- Trong quá trình đầu tư hay gây quỹ dự án, các ngân hàng nên tiếp cận những vấn đề nhạy cảm như những nhóm dễ tổn thương; di dân không tự nguyện và dự án nên được đánh giá ở những khu vực môi trường quan trọng như đầm lầy, rừng, thảo nguyên và những khu sinh học khác.
- Các ngân hàng cần theo dòi những giao dịch cho chương trình quản trị rủi ro môi trường trong suốt việc thực hiện và triển khai dự án. Ngoài ra, cũng cần thiết những cuộc thanh tra thực tế quá trình sản xuất, tài nguyên, đào tạo và hỗ trợ, trách nhiệm nợ môi trường, chương trình kiểm toán…Phần tiếp theo trong quá trình đánh giá bao gồm cấu trúc tín dụng, chấp thuận cho vay, tổng quan tín dụng và cuối cùng là quản trị tín dụng dưới góc độ môi trường.
- Ngoài ra các ngân hàng có thể giới thiệu các khoản cho vay xanh và các sản phẩm tương tự: (i) đầu tư vào các dự án môi trường (tái sử dụng, nông nghiệp, công nghệ, phế liệu, …) ví dụ như giảm lãi suất cho vay đối với những người vay để lắp hệ thống pin năng lượng mặt trời; (ii) cung cấp cho khách hàng quyền được đầu tư vào các sản phẩm thần thiện với môi trường của ngân hàng; và
(iii) đầu tư vào những nguồn lực có sự kết hợp giữa sinh học và xã hội
3.3. Xây dựng hệ thống quản lý môi trường và vai trò của chính phủ
Với việc xuất hiện ISO 14000 và sự phát triển hệ thống thông tin, ngày nay thật dễ dàng để các nhân viên tín dụng có thể so sánh các công ty với nhau và dành sự chú ý của mình đến việc quản lý sự ô nhiễm và đo lường mối quan hệ giữa trách nhiệm môi trường và rủi ro xung quanh nó. Mặc dù các ngân hàng thương mại dành nhiều sự tập trung đến các nghiệp vụ đầu tư hơn so với vấn đề môi trường, những trách nhiệm môi trường có thể được xây dựng nên từ những điều luật về môi trường và ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định đầu tư của họ trong tương lai gần. Ngoài ra, cần xây dựng một hệ thống quản lý, kiểm tra môi trường riêng cho đất nước dựa trên tiêu chuẩn ISO14000, bởi vì kiểm tra môi trường là cần thiết để hướng tới một môi trường dễ dàng để kinh doanh và hướng tới những hình thái phát triển bền vững. Bên cạnh đó, những vấn đề trong quá khứ và hiện tại hay rủi ro môi trường tiềm năng cũng như trách nhiệm về môi trường cần phải được rang buộc với việc thẩm định dự án đầu tư.
Nhưng để đảm bảo tất cả những việc trên, chắc chắn chúng ta cần có khung pháp lí chặt chẽ về trách nhiệm của các bên liên quan và đặc biệt là hệ thống ngân hàng. Chính phủ có thể ban hành những quy định để hướng các ngân hàng quan tâm sản xuất với chính sách môi trường đồng nhất và đưa ra công khai. Mặc dù Schimidheiny và Zoraquyn (1996) kết luận từ những nghiên cứu chính là các ngân hàng sẽ ít có động cơ tài trợ cho các dự án thân thiện với môi trường vì: (1) Họ thích các dự án có thời gian thu hồi vốn nhanh hơn; và (2) Những khoản đầu tư có đi kèm theo chi phí quản lí môi trường thường cho tỉ lệ lợi nhuận thấp hơn. Do vậy, các khoản đầu tư bền vững dường như khó tìm kiếm được