Điều Chỉnh Bằng Pháp Luật Quan Hệ Hợp Đồng Cho Vay Trong Lĩnh Vực Tín Dụng Ngân Hàng


Vấn đề pháp lý được đặt ra là, tiền vay sau khi được chuyển giao (còn gọi là “giải ngân”), số tiền đó có phải là tài sản thuộc quyền sở hữu của bên vay. Bên vay có được toàn quyền quản lý, định đoạt, sử dụng tiền vay theo ý chí riêng của mình?

Các quan điểm khoa học hiện nay đều cho rằng: Việc chuyển giao quyền sở hữu (tiền vay) chỉ là “tạm thời”. Trường hợp, tiền vay chuyển vào tài khoản của bên vay theo tiến độ của HĐCV, thì bên vay chỉ được phép sử dụng số tiền đó vào mục đích ấn định theo các điều kiện mà họ (bên vay) đã cam kết với ngân hàng. Do đó, trên lý thuyết, tiền vay cũng phải được sử dụng đúng mục đích vay, để bảo đảm cho các nghĩa vụ hoàn trả theo cam kết của bên vay. Khoản tiền do bên vay nắm giữ có nguồn gốc được ngân hàng giải ngân cho vay không bị bất kỳ tổ chức, cá nhân nào tịch thu, kê biên cho bất kỳ mục đích, hay lý do nào khác.

Thứ ba, HĐCV thông thường là hợp đồng do các TCTD chủ động soạn thảo

Các TCTD hoạt động dưới hình thức đơn vị kinh doanh có quy mô lớn, gồm nhiều đơn vị phụ thuộc nên việc nghiên cứu, xây dựng mẫu HĐCV để ứng dụng trong toàn hệ thống ngân hàng, là công việc cần thiết. Do vậy, các điều khoản hợp đồng này thường bất lợi đối với bên vay khi thực hiện, cũng như khi có tranh chấp xảy ra.

Chẳng hạn, mẫu Hợp đồng tín dụng của Ngân hàng thương mại cổ phần PhĐ đang được sử dụng (Mẫu số 01A/TD-OCB/2017) tại điểm c, khoản 3 Điều 9 của hợp đồng này quy định: Ngân hàng được quyền thu hồi nợ trước hạn trong trường hợp“Bên vay có thay đổi về hoạt động hoặc/và tổ chức (chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi doanh nghiệp, cổ phần hóa, thay đổi chủ sở hữu…) và/hoặc có thay đổi về cổ đông có quyền biểu quyết hoặc/và nhân sự chủ chốt (Người đại diện theo pháp luật, người điều hành…) có thể làm ảnh hưởng đến tình hình hoạt động kinh doanh và khả năng trả nợ của Bên vay…57.

Theo tác giả, điều khoản của mẫu hợp đồng này có sử dụng các cụm từ như: “ảnh hưởng đến tình hình hoạt động kinh doanh”, “khả năng trả nợ” thể hiện các căn cứ cho phép thu hồi nợ trước hạn mơ hồ, phụ thuộc quyền tự quyết của bên cho vay, cho dù điều khoản này có sự đồng ý của bên vay. Những cụm từ trên đã không thể hiện rõ nhân tố trực tiếp gây mất an toàn, tiêu chí để bên cho vay thu hồi nợ trước hạn một cách hợp pháp.

Về lĩnh vực cho vay tiêu dùng, pháp luật hợp đồng đề cao bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng với tư cách là chủ thể yếu thế. Do đó, HĐCV tiêu dùng cũng phải thể hiện dưới hình thức “hợp đồng theo mẫu” (dạng hợp đồng này được luật hóa để bảo vệ quyền lợi của bên yếu thế) có đầy đủ các điều khoản bảo đảm minh bạch, bình đẳng quyền lợi của bên vay. Đối với các chủ thể vay vốn nhằm thực hiện các mục đích kinh doanh hay các mục đích khác, hợp đồng vay vẫn phải lập thành văn bản, nhưng chỉ cần làm rõ cơ chế thực hiện thỏa thuận khung, luật hóa một số quy định về điều khoản cơ bản sẽ giải quyết, đáp ứng yêu cầu các nhà làm luật đặt ra, đó là tính bình đẳng trong quan hệ hợp đồng.


57 Xem thêm tại: Phụ lục 2 – Mẫu hợp đồng cho vay của một TCTD

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.


Thứ tư, thời hạn thực hiện HĐCV thường kéo dài, nhiều rủi ro, dễ phát sinh tranh chấp

Pháp luật Việt Nam về hợp đồng cho vay trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng - 6

Khi ký kết HĐCV, các bên đều hướng đến các mục đích (lợi ích) khác nhau, trong đó có các nhu cầu tìm kiếm lợi nhuận nên thời hạn hợp đồng thường kéo dài cùng với quá trình hoạt động sản xuất đầu tư, kinh doanh của bên vay. Quá trình này khác với các hợp đồng kinh doanh, thương mại, thông thường các bên chỉ thực hiện một vài công đoạn đầu tư, hoặc một giao dịch cụ thể, được chấm dứt khi giao dịch đó hoàn thành.

Khoản vay có thời hạn kéo dài sẽ phát sinh nhiều rủi ro khó lường, do đó công tác quản trị rủi ro tín dụng luôn là giải pháp ưu tiên hàng đầu đối với các TCTD. Thông qua hành vi ký kết hợp đồng, TCTD chủ động đưa vào hợp đồng những điều khoản có lợi, ràng buộc nhiều điều kiện khắc khe, chặt chẽ đối với bên vay để bảo đảm phòng tránh những rủi ro khách quan, chủ quan. Đây cũng chính là nguyên nhân làm cho HĐCV dễ dẫn đến những tranh chấp phát sinh hơn so với các hợp đồng kinh doanh, thương mại bình thường khác. Các tranh chấp này không đơn thuần chỉ dừng lại ở nghĩa vụ hoàn trả tiền vay mà còn là những tranh chấp về phí, lãi suất, xử lý tài sản,… Do đó khi giải quyết tranh chấp, những người làm công tác xét xử phải phân định phạm vi thỏa thuận hợp đồng hợp pháp, không hợp pháp, những thỏa thuận không phù hợp với thực tế của quan hệ tín dụng bình đẳng, bị chèn ép,…

Tóm lại, HĐCV có những đặc điểm chung của quan hệ hợp đồng nhưng cũng thể hiện nhiều đặc thù, khác biệt so với các hợp đồng kinh doanh, thương mại xuất phát từ quyền định đoạt tài sản trong kinh doanh của TCTD có những giới hạn khắt khe hơn. Hơn thế nữa, hoạt động cho vay gắn liền với trọng trách cung ứng vốn cho nền kinh tế, tác động đến công tác quản lý vĩ mô của nhà nước, do đó trong quan hệ hợp đồng vay, quyền tự do hợp đồng, tự do kinh doanh không chỉ đơn thuần là vấn đề lợi nhuận, đó còn là lợi ích chung của các bên liên quan cần được dung hòa, bảo đảm.

c) Một vài so sánh sự khác biệt giữa hợp đồng cho vay với hợp đồng vay tài sản HĐCV là một dạng đặc biệt của hợp đồng vay tài sản, nên hai hợp đồng này có những đặc điểm chung, tương đồng như đã được phân tích. Thêm vào đó, hợp đồng vay tài sản chịu sự điều chỉnh của BLDS với tính chất là luật chung, pháp luật cho phép áp dụng các luật liên quan khi có sự khác biệt nên các quy định về hai hợp đồng thể hiện những điểm riêng nhất định. Việc nghiên cứu so sánh chỉ mang tính chất tương đối, dựa trên các luận điểm trong khoa học, được luật hóa thông qua các quy

định về sự khác biệt này.

Về chủ thể, những tổ chức, cá nhân tham gia quan hệ hợp đồng vay tài sản thường rộng hơn (không có sự tham gia của TCTD), chỉ cần những tổ chức, cá nhân có năng lực pháp luật, năng lực hành vi, có nhu cầu vay, khả năng hoàn trả tài sản. Các bên tự thực hiện giao dịch, không bắt buộc sử dụng vốn vay đúng mục đích, không bắt buộc lập thành văn bản nên thủ tục vay thông thoáng, nhanh chóng. Đặc điểm này minh chứng, quan hệ hợp đồng vay tài sản không phức tạp, không chịu sự kiểm soát


chặt chẽ của nhà nước, chỉ cần các bên đồng thuận, thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ hoàn trả tài sản.

Vấn đề lãi suất được đặt ra để bảo đảm quyền lợi của bên cho vay tài sản. Song xuất phát từ đặc điểm quan hệ tương hỗ, bên cho vay (với tư cách là chủ sở hữu, được toàn quyền định đoạt tài sản vay), họ có thể không yêu cầu lãi suất. Trường hợp cho vay có lãi, tỷ lệ lãi suất cũng phải trong khuôn khổ nhất định, không để tình trạng “lãi chồng lãi” (hình thức tính lãi trái pháp luật, làm tăng nghĩa vụ trả nợ đối với bên vay).

Vấn đề này, thực tiễn pháp lý hiện nay vẫn đặt ra, tại tài liệu Dự thảo (lần 3) nghị quyết về lãi suất của ngành tòa án có đề cập tính gộp lãi suất (tiểu mục a.2, khoản 2, điều 3). Theo tác giả, về nguyên tắc lãi suất không được nhập vào nợ gốc sau đó tiếp tục tính lãi, vì BLDS năm 2015 đã quy định cách tính lãi đối với các khoản nợ quá hạn, đã bao gồm tiền lãi (trong lĩnh vực ngân hàng, pháp luật quy định cụ thể nghĩa vụ trả lãi và biện pháp chế tài, không cho phép tính gộp vào nợ gốc),58 cho dù thực tiễn pháp lý có đề cập, cho phép thực hiện (Cụ thể: Mục 1, điểm 4, tiết a Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 về giải quyết vướng mắc trong giao dịch dân sự; Điều 655 BLDS và Thương mại Thái Lan).

Mức lãi suất, trong quan hệ vay tài sản các bên tự thỏa thuận, nhưng có giới hạn nhất định để bảo vệ quyền lợi bên vay (không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay theo quy định tại khoản 1, Điều 468 BLDS năm 2015). Trong khi đó, Luật các TCTD không đề cập lãi suất, lãi suất trong HĐCV do các bên tự thỏa thuận, theo nhu cầu và quy luật điều chỉnh của thị trường thay vì được NHNN ấn định như các quy định trước đây (dưới hình thức lãi suất cơ bản, thông thường từ 8-9%/năm). Điều này đã thể hiện quan điểm của các nhà làm luật về sự bất hợp lý giữa lãi suất cho vay trong cho vay dân sự với lãi suất cho vay ngân hàng. Sự bất hợp lý này làm nảy sinh tâm lý của bên vay mong muốn chậm trả nợ để được hưởng lợi chênh lệch về lãi suất (do lãi suất ngân hàng cao hơn) mà lẽ ra họ phải trả như có ý kiến nhận xét.59

Song, theo quan điểm của tác giả, mức lãi suất trong và ngoài lĩnh vực ngân hàng bên cạnh mối quan hệ vốn có, mức lãi suất này luôn có sự chênh lệch nhất định. Thật vậy, hoạt động cho vay làm phát sinh nhiều chi phí TCTD phải chi trả. Bên cạnh đó, với mục đích sinh lời, nên lãi suất cho vay (ngân hàng) luôn cao hơn mức lãi suất trong lĩnh vực dân sự khi đó mới bảo đảm quyền lợi của các TCTD, đồng thời hạn chế được tình trạng bên vay lợi dụng vốn vay của ngân hàng để cho vay lại, kiếm lợi phần chênh lệch lãi suất, gây mất ổn định thị trường tiền tệ. Mặt khác, việc pháp luật cho phép các bên tự thỏa thuận lãi suất, nhưng phải trong khả năng tài chính, hoạt động của ngân hàng, dựa vào chỉ tiêu, mức độ tăng trưởng được đặt ra (năng lực này do


58 Xem thêm: Dự thảo 3 Nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi suất, phạt vi phạm https://vbpq.toaan.gov.vn/webcenter/portal/htvb/chi-tiet-vbdt?dDocName=TAND053142, truy cập lúc 20:39 ngày 16/1/2019

59 Xem: Đỗ Văn Đại (2011), Luật hợp đồng Việt Nam: Bản án và bình luận bản án, Tập 2 (tái bản lần thứ ba), Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 231


NHNN kiểm soát), TCTD không được tùy tiện thỏa thuận một mức lãi suất bất kỳ, thiếu căn cứ ảnh hưởng đến uy tín, gây thiệt hại cho ngân hàng.

Tóm lại, từ sự khác biệt cơ bản trên, pháp luật Việt Nam phân chia hai hợp đồng nằm trong các nhóm quan hệ xã hội riêng biệt, chịu sự điều chỉnh của luật chung và luật chuyên ngành, tương tự như pháp luật các nước theo hệ thống luật thành văn: i) Tại Trung Quốc: Quan hệ hợp đồng chịu sự điều chỉnh của Luật Hợp đồng thống nhất Trung Quốc năm 199360, đạo luật về hợp đồng này bao gồm hợp đồng vay tài sản (Chương XII, Điều 196). Đối với HĐCV ngân hàng, pháp luật quy định khá cụ thể tại Điều 37 Luật Ngân hàng thương mại Trung Quốc năm 1995; ii) Tại Đức: Giao dịch cho vay chịu sự điều chỉnh bởi luật chuyên ngành tín dụng (Điều 2, 3 Luật về Ngành tín dụng Đức).61 Quan hệ vay tài sản cũng được xem là quan hệ dân sự, chịu sự điều chỉnh của BLDS Đức (Geman Civil Code).62

Trong thực tiễn, các tổ chức, cá nhân, cơ quan thực thi, bảo vệ pháp luật vẫn còn nhầm lẫn hai dạng hợp đồng này, nên thường áp dụng sai pháp luật,63 làm tranh chấp kéo dài, ảnh hưởng đến chất lượng xét xử. Vì vậy, việc định vị đặc điểm của hai chế định hợp đồng này còn là căn cứ để các nhà làm luật thiết lập các quy định pháp lý phù hợp, làm cơ sở để bảo đảm cho các tổ chức, cá nhân thực thi đúng pháp luật.

Như vậy, HĐCV có đặc điểm chung với hợp đồng vay tài sản về nghĩa vụ hoàn trả tiền vay. Song, từ bản chất là một loại hợp đồng ưng thuận với những điểm đặc thù như đã được phân tích, quan hệ vay này chịu sự điều chỉnh của pháp luật ngân hàng. Thông qua cơ chế điều chỉnh của pháp luật chuyên ngành ngân hàng, quan hệ vay đáp ứng được các tiêu chí đặc thù về quyền lợi hợp đồng của các bên, đáp ứng các mục tiêu quản lý kinh tế của nhà nước, cũng như mục tiêu an toàn của hệ thống tín dụng.

2.1.2.2. Bản chất kinh tế của hợp đồng cho vay

Trên cơ sở nghiên cứu bản chất kinh tế của HĐCV, luận án đánh giá sự tác động, ảnh hưởng tương tác của nền kinh tế đối với những thay đổi của pháp luật về HĐCV, cũng như những hiệu quả thực thi pháp luật trong lĩnh vực này đối với nền kinh tế, theo các lý thuyết kinh tế, pháp lý đã được luận án đề cập.

Thứ nhất, HĐCV là hình thức để các bên thỏa thuận, giải quyết nhu cầu vốn cho đời sống, sản xuất kinh doanh

Bằng việc ký kết các HĐCV, các doanh nghiệp, cá nhân được vay vốn kịp thời theo tiến độ của hợp đồng, phù hợp với kế hoạch sử dụng vốn để mở rộng đầu tư, sản xuất, kinh doanh thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa phát triển, tạo công ăn việc làm cho người lao động.


60 Chinese Contract Law. Nguồn: http://www.npc.gov.cn/engishnpc/Law/2007-12/11/content_1383564.htm, truy cập lúc 13:34 ngày 30/11/2016

61 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Sđd (36), Nxb. Thế giới, 1997, tr. 387-404

62 Geman Civil Code. Nguồn: http://ww.gete-im-internet.de/english_bgb/, truy cập lúc 6:09 ngày 27/11/2016

63 Ví dụ: Bản án số 1413/2010/DS-PT ngày 14/12/2010 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh giải quyết tranh chấp vụ án “hợp đồng cho vay” nhưng lại xác định không đúng quan hệ tranh chấp, khi cho rằng đây là vụ án tranh chấp “hợp đồng vay tài sản”. Xem thêm: Phụ lục 3 (Vụ án thứ 1)


Nguồn vốn để các TCTD cho vay không chỉ dành riêng cho cá nhân hoặc nhóm cá nhân nào. Với nguồn tài nguyên vốn hạn hẹp, các chủ thể đang gặp khó khăn về tài chính sẽ khó có cơ hội tiếp cận vốn vay. Vì vậy, quyền tiếp cận vốn vay, trong nghiên cứu lý luận và pháp luật được đặt ra, là nhằm mục đích để giải quyết nhu cầu vốn đa dạng nêu trên. Đó còn là cơ sở để các tổ chức, cá nhân không bị cản trở tiếp cận tín dụng nếu họ có đầy đủ các điều kiện vay vốn được pháp luật cho phép, bảo đảm quyền bình đẳng của bên đi vay cho dù đó là thực thể khách hàng nào.

Thứ hai, TCTD tham gia quan hệ HĐCV hướng đến mục tiêu kinh doanh để sinh lời

HĐCV là phương tiện để các TCTD thực hiện mục đích sinh lời. Chức năng này gắn liền với các TCTD, như được đánh giá là “ngay từ khi hình thành các NHTM64, với vai trò “tạo ra giá trị thặng dư của đồng tiền65 (tính tạo tiền). Khác với các giao dịch kinh tế khác, giao dịch cho vay của các NHTM luôn mang tính hệ thống, phát triển theo bề rộng cả trong và ngoài nước, có quy mô lớn, khó kiểm soát nếu không có cơ chế quản lý chặt chẽ, phù hợp. Để thực hiện chức năng của mình, đáp ứng nhu cầu phát triển tín dụng, TCTD luôn tìm tòi, cung ứng sản phẩm, dịch vụ cho vay tiện ích, đa dạng, giải quyết nhu cầu sử dụng vốn ngày càng cao của bên vay.

Hoàn thiện pháp luật HĐCV, bên cạnh các yêu cầu về an toàn, hạn chế rủi ro khi cho vay, các TCTD còn phải hướng đến mục tiêu đơn giản hóa, minh bạch thủ tục vay vốn, đáp ứng nhu cầu vốn đa dạng của khách hàng.

Thứ ba, lãi suất được thỏa thuận phù hợp với quy luật cung cầu của nền kinh tế

Bên vay khi sử dụng tiền vay vào mục đích tiêu dùng, sinh hoạt hay các hoạt động sản xuất, kinh doanh sẽ mang lại lợi ích kinh tế, dân sự nhất định. Một phần lợi nhuận đó được trả cho các TCTD, đây chính là giá cả khoản vay.66 Với phương châm “đi vay để cho vay67, tìm kiếm lợi nhuận, trường hợp lãi suất hợp lý sẽ thúc đẩy khách hàng vay vốn. Lãi suất cho vay còn là cơ sở để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng kinh tế, trong trường hợp các bên vi phạm nghĩa vụ thanh toán.

Thật vậy, Điều 306 Luật Thương mại năm 2005, tiền lãi do chậm thanh toán sẽ được tính theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán, tương ứng với thời gian chậm trả. Đối với các lĩnh vực kinh doanh, thương mại nói chung, pháp luật cho phép các bên phạt vi phạm hợp đồng nhưng không ấn định lãi suất chậm thanh toán. Vì vậy, các tòa án vẫn thường áp dụng “lãi suất nợ quá hạn trung bình” của 03 (ba) NHTM cho lĩnh vực này xuất phát từ lý do, các đơn vị kinh tế cũng phải đi vay để bù đắp thiếu hụt tài chính, nên áp dụng lãi suất theo ngân hàng.

Như vậy, lãi suất theo HĐCV phải đáp ứng nhu cầu, chịu sự điều chỉnh của nền kinh tế thị trường. Yếu tố này đòi hỏi lãi suất phải minh bạch để bảo vệ quyền lợi



64 Xem: Lê Văn Tề (2007), Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, Nxb. Thống Kê, tr. 21

65 Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2015), Sđd (34), tr. 321

66 Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2015), Sđd (34), tr. 305

67 Cụm từ này được diễn giải là “mua khoản vay với giá thấp, bán khoản vay với giá cao, phần chênh lệch đó là lợi nhuận”. Xem Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2015), Sđd (34), tr. 307


chính đáng của bên vay, cũng như các chủ thể tham gia quan hệ kinh tế nói chung. Không vì lý do khách hàng có nhu cầu vay vốn mà ngân hàng chèn ép, đặt ra nhiều khoản phí, lãi suất không hợp lý.

Vấn đề đặt ra là, lãi suất này được áp dụng đến giai đoạn nào của hợp đồng. Ngành tòa án đã quan tâm đề cập như một phương án (phương án 2, Điều 8 Dự thảo lần 3 Nghị quyết về lãi suất và phạt vi phạm) khi tranh chấp được giải quyết. Song các quan điểm tại dự thảo chỉ chấp nhận mức lãi suất từ 10% đến 20% khi các bên không có thỏa thuận hoặc có thỏa thuận nhưng không vượt quá mức pháp luật quy định, nội dung này được ban soạn thảo sau đó chỉnh sửa theo hướng dựa trên lãi suất thỏa thuận (điểm a, khoản 1, Điều 13 Nghị quyết 01/NQ-HĐTP ngày 11/1/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm).

Tuy nhiên trong vấn đề này, theo tác giả, cần áp dụng lãi suất do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền (quy định tại khoản 2, Điều 357; khoản 2, Điều 468 BLDS năm 2015) tại thời điểm trả nợ theo quyết định của tòa án, cho dù có thỏa thuận lãi suất mới phù hợp. Vì khi đó, quan hệ hợp đồng giữa các bên đã chấm dứt, các nghĩa vụ phát sinh do chậm thanh toán nợ trong dân sự, kinh doanh đã được tòa án xác định. Điều này hoàn toàn khác với nghĩa vụ thanh toán nợ gốc và lãi trong ngân hàng được bên vay bắt buộc thực thi cho đến khi trả hết nợ theo hợp đồng đã ký kết, cho dù việc tranh chấp phải đưa ra tòa án, trọng tài giải quyết.

Thứ tư, quan hệ HĐCV tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với bên cho vay

Khác với lĩnh vực kinh doanh, thương mại, rủi ro khi ký kết hợp đồng vẫn xảy ra, nhưng thông thường phạm vi, mức độ tác động có những giới hạn nhất định. Trong lĩnh vực ngân hàng, rủi ro tín dụng chịu sự tác động nhiều phía, nhiều khả năng vượt ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng, có quy mô thiệt hại lớn, ảnh hưởng đến uy tín, chất lượng của hệ thống tín dụng.

Những tác động khách quan và chủ quan phát sinh rủi ro có thể xảy ra như sau: Công tác quản lý điều hành của nhà nước về chính sách tín dụng tác động trực tiếp đến HĐCV; Các TCTD buông lỏng công tác quản trị rủi ro, áp lực mở rộng tín dụng dẫn đến những quyết định cho vay dưới chuẩn; Rủi ro khách quan do khủng hoảng, tác động tiêu cực của nền kinh tế ảnh hưởng dây chuyền, tác động đến hiệu quả HĐCV (ví dụ: giá trị tài sản bảo đảm đang thế chấp, cầm cố bị giảm sút; công việc kinh doanh có sử dụng vốn vay của khách hàng không hiệu quả, khách hàng mất khả năng thanh toán,…).

Giảm thiểu rủi ro cho vay luôn là yêu cầu được pháp luật đặt ra đối với các cơ quan quản lý nhà nước và đối với bên cho vay, thông qua các biện pháp: nâng cao chất lượng xét duyệt tín dụng, tăng cường kiểm soát, giám sát; thiết lập quy trình cho vay chặt chẽ, phù hợp với năng lực của TCTD; chủ động thu hồi tài sản xử lý nợ;…


2.2. ĐIỀU CHỈNH BẰNG PHÁP LUẬT QUAN HỆ HỢP ĐỒNG CHO VAY TRONG LĨNH VỰC TÍN DỤNG NGÂN HÀNG

2.2.1. Nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với quan hệ hợp đồng cho vay

Điều chỉnh bằng pháp luật quan hệ HĐCV là những biện pháp, cách thức pháp luật tác động đến quá trình ký kết, thực hiện và chấm dứt HĐCV. Mục tiêu điều chỉnh pháp luật HĐCV là để các quan hệ này hình thành và phát triển theo định hướng nhất định, đảm bảo yếu tố bình đẳng, quyền tự định đoạt giữa các chủ thể tham gia.

a) Nguyên tắc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hợp đồng cho vay

Quan hệ HĐCV có nguồn gốc và quá trình phát triển lịch sử lâu dài, làm phát sinh nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật phù hợp với khuôn khổ, ý chí của nhà nước, phục vụ lợi ích chung của xã hội. Các tập quán, chuẩn mực đạo đức kinh doanh tín dụng không thể thay thế cho các quy phạm pháp luật để điều chỉnh có hiệu quả quan hệ HĐCV (vì không bảo đảm tính cưỡng chế và củng cố, duy trì trật tự quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực đặc thù này).

Với tư cách là kiến trúc thượng tầng, pháp luật nói chung và pháp luật về HĐCV nói riêng phải thích ứng với hạ tầng kinh tế, những yêu cầu trong công tác quản lý thị trường tài chính, tiền tệ. Trên cơ sở nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu điều chỉnh bằng pháp luật về HĐCV phải xuất phát từ các nguyên tắc như sau: Các TCTD “với tư cách là các pháp nhân kinh tế”,68 (nguyên do chuyển đổi mô hình kinh tế thị trường, hoạt động ngân hàng được xem như các đơn vị kinh tế có tư cách pháp nhân), khi ký kết HĐCV, dù dưới góc độ nào, các TCTD cũng đều phải hướng đến mục tiêu, lợi ích kinh tế. Không bất kỳ ai có thể áp đặt các TCTD phải cho vay một đối tượng nào đó với lãi suất thấp so với lãi suất cho vay của thị trường. Tương tự như vậy, trong quan hệ với đối tác (bên vay) yêu cầu đảm bảo an toàn khi cho vay cần cơ chế pháp lý dung hòa, bảo đảm quyền lợi vật chất chính đáng giữa các chủ thể, và từng nhóm đối tượng vay.

Như vậy, điều chỉnh bằng pháp luật đối với quan hệ HĐCV về nguyên tắc phải đáp ứng nhu cầu vận động, thay đổi khách quan của nền kinh tế, nhu cầu quản lý của nhà nước đối với giao dịch cho vay, nhu cầu tự thân của chính các TCTD, doanh nghiệp, cá nhân.

b) Điều chỉnh bằng pháp luật quan hệ hợp đồng cho vay nhưng luôn luôn tôn trọng quyền tự do thỏa thuận, tự định đoạt và tự chịu trách nhiệm của các bên

Xuất phát từ quyền tự do ý chí khi giao kết hợp đồng, khái niệm về hợp đồng quy định tại Điều 385 BLDS năm 2015 theo nghĩa: “là sự thỏa thuận giữa các bên”. Sự can thiệp của nhà nước bằng pháp luật cũng nhằm để bảo đảm quyền bình đẳng hợp đồng đó.

Quyền tự do thỏa thuận là nguyên tắc tối thượng, chi phối suốt quá trình thực hiện hợp đồng. Có thể thấy trong lĩnh vực ngân hàng, quyền tự do hợp đồng bị giới


68 Theo tài liệu: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Sđd (36), Nxb. Thế giới, 1997, tr. 111


hạn bởi nguyên tắc an toàn vay. Song, khi thỏa thuận hợp đồng, lợi ích cơ bản của các bên phải được pháp luật bảo đảm dựa trên những nhu cầu tín dụng thực tế, gắn với lợi ích kinh tế nhất định. Chẳng hạn, pháp luật cho phép các bên thỏa thuận lãi suất cho vay (Thông tư số 07/2010/TT-NHNN ngày 26/2/2010 của NHNN về cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận của TCTD với khách hàng), phản ánh đúng bản chất của quan hệ hợp đồng, làm hình thành mặt bằng lãi suất cho vay minh bạch, đáp ứng nhu cầu vốn của thị trường. Đến thời điểm hiện nay, quy định về lãi suất thỏa thuận vẫn còn hiệu lực là minh chứng cho thấy sự ổn định trong thực tiễn áp dụng, phù hợp với tiêu chí: “Pháp luật HĐCV phải ổn định, có giá trị lâu dài, kịp thời giải quyết các vướng mắc phát sinh trong quá trình áp dụng” như luận án đề cập.69

Nguyên tắc các bên tự do thỏa thuận hợp đồng nhưng không trái pháp luật. Với các quy định khung, biên độ, tỷ lệ cho phép thỏa thuận, phạm vi áp dụng quy định nội bộ, quy định của pháp luật, giới hạn điều kiện thỏa thuận hợp đồng,… được đặt ra trong pháp luật về HĐCV như hiện nay, việc xác định nội dung thỏa thuận hợp pháp không phải là dễ dàng, kể cả đối với các cơ quan tài phán khi giải quyết tranh chấp.

Ví dụ: Điều 13 Hợp đồng tín dụng số 6010/HĐTD ngày 10/9/2010 ký kết giữa Ngân hàng thương mại cổ phần CTVN (Chi nhánh PY) với Doanh nghiệp tư nhân Sản xuất thương mại PH, có ghi như sau: “… mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng hoặc có liên quan đến hợp đồng sẽ được đưa ra giải quyết tại Tòa kinh tế… hoặc đưa ra giải quyết tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam.

Điều khoản thỏa thuận trên cho phép các bên được lựa chọn cơ quan tòa án hoặc trọng tài giải quyết tranh chấp. Về nguyên tắc, đó phải là tòa án nơi có thẩm quyền được pháp luật tố tụng dân sự quy định cụ thể. Trường hợp các bên lựa chọn tố tụng trọng tài, hợp đồng vay bắt buộc phải ghi rõ tên của tổ chức trọng tài kèm theo điều khoản mẫu của tổ chức trọng tài đó, phù hợp điều kiện thụ lý giải quyết vụ án (Điều 5 Luật Trọng tài thương mại năm 2010).

Điều khoản thỏa thuận “giải quyết tại tòa kinh tế…” theo Hợp đồng tín dụng số 6010/HĐTD ngày 10/9/2010 không đúng pháp luật (lý do là tòa án cấp quận huyện xét xử trong trường hợp này không có tòa chuyên trách – Tòa kinh tế). Trong khi đó, tình tiết được các bên thỏa thuận: “giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài…”, tồn tại bên cạnh quy định cho phép lựa chọn tòa án là chưa phù hợp vì các bên chỉ được lựa chọn một cơ quan tài phán duy nhất. Nếu không đáp ứng điều kiện này, thỏa thuận trên sẽ gây khó khăn trong việc xác định thẩm quyền của cơ quan tài phán giải quyết vụ án, khi có tranh chấp xảy ra.

Vì vậy, luận án khi phân tích, đề cập các điều khoản của hợp đồng cần làm rõ phạm vi của thỏa thuận hợp pháp, không trái pháp luật, từ đó định vị, xác định giới hạn trong các thỏa thuận của HĐCV. Song, về lâu dài, cụ thể hóa các quy định, phạm vi giới hạn thỏa thuận cần được các nhà làm luật quan tâm bằng các giải pháp, điều



69 Xem thêm: Mục 2.3.1.2. Kịp thời, đồng bộ; ổn định, minh bạch, không chồng chéo

Xem tất cả 232 trang.

Ngày đăng: 09/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí