Các Quy Định Của Pháp Luật Việt Nam Về Hợp Đồng Dịch Vụ Pháp Lý

động tố tụng còn bị cơ quan tố tụng gây khó khăn thì liệu những người tập sự hành nghề luật sư sẽ được “tạo điều kiện” thế nào khi họ đi cùng luật sư chính? Câu hỏi này, bất cứ ai cũng có thể trả lời.

Chính những quy định pháp luật như thế nên nhiều người tập sự hành nghề luật sư chỉ “đánh trống ghi tên” ở một tổ chức hành nghề luật sư mà không thực sự tập sự. Vì dù có muốn tập sự thì họ cũng chỉ được thực hiện những công việc như một “chân sai vặt” của luật sư mà thôi.

Sau khi trải qua thời gian tập sự hành nghề, người tập sự phải trải qua một kỳ kiểm tra, vượt qua được kỳ kiểm tra này mới được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư. Kỳ kiểm tra này có tên là kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư, do Bộ Tư pháp, Liên đoàn luật sư Việt Nam và các Đoàn luật sư phối hợp tổ chức. Điều 16 Luật luật sư, từ điều 19 đến điều 34 thông tư 21 quy định cụ thể về kỳ kiểm tra này. Kỳ kiểm tra này không có sự cạnh tranh giữa các thí sinh, không giới hạn số thí sinh trượt, đỗ. Bất cứ thí sinh nào đạt đủ điểm đều được coi là đạt yêu cầu kiểm tra kết quả hành nghề luật sư và được cấp Giấy chứng nhận kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư.

Cũng như bao kỳ thi khác ở Việt Nam, kỳ kiểm tra này cũng chưa đánh giá được thực chất khả năng của các thí sinh và còn tồn tại nhiều tiêu cực trong thi cử. Quy chế tập sự hành nghề luật sư ban hành kèm theo Thông tư 21 đã được sửa đổi nhiều so với Quy chế kiểm tra hết tập sự hành nghề luật sư được ban hành kèm theo Quyết định số 667/2004/QĐ-BTP ngày 08/12/2004 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, trong đó bổ sung quy định về việc thành lập mới Ban Giám sát để giúp Lãnh đạo Bộ giám sát toàn bộ quá trình kiểm tra, bảo đảm tính khách quan, công khai, minh bạch, ngăn ngừa tiêu cực trong hoạt động kiểm tra (điều 30). Bên cạnh đó, Quy chế cũng quy định rõ về việc xử lý vi phạm đối với thí sinh tham dự kiểm tra; xử lý vi phạm đối với thành viên Hội đồng kiểm tra, Ban Thư ký, Ban Coi thi, Ban Chấm thi viết, Ban Chấm thi thực hành, Ban Phúc tra và Ban Giám sát và các vấn đề liên quan đến khiếu nại, tố cáo về việc kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư (điều 31, điều 32, điều 33, điều 34). Tuy nhiên những sự bổ sung đó cũng không hạn chế được nhiều những điểm còn bất cập của kỳ kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư.

2.1.4 Điều kiện hành nghề luật sư

Điều 11 Luật luật sư quy định điều kiện hành nghề luật sư như sau “Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 10 của Luật này muốn được hành nghề luật sư phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư”

Theo đó các quy định bắt buộc để hành nghề luật sư là phải có chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập đoàn luật sư. Như vậy Chứng chỉ hành nghề luật sư không phải là giấy phép hành nghề luật sư, cũng không phải là giấy tờ công nhận luật sư và quyền hành nghề luật sư. Còn Thẻ luật sư mới có đầy đủ ý nghĩa nêu trên. Điều 17 Luật luật sư quy định “Người đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư có hồ sơ đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư gửi Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư”. “Người đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư có hồ sơ đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư gửi Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư”.

“Chứng chỉ hành nghề” theo quy định tại Khoản 4 Điều 6 Luật Doanh nghiệp là văn bản mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc hội nghề nghiệp chỉ cấp cho cá nhân có đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp về một ngành, nghề nhất định. Theo đó khi được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư nghĩa là người đó đã có đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp để hành nghề luật sư. Tuy nhiên theo quy định của pháp luật Việt Nam, một người chỉ được hành nghề luật sư khi đã gia nhập đoàn luật sư và được cấp thẻ luật sư. Còn chứng chỉ hành nghề luật sư chỉ xác định người đó đã vượt qua kỳ kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư. Đây lại là một điểm bất cập nữa của Luật luật sư, bởi khi vượt qua kỳ kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư người đó đã được cấp “Giấy chứng nhận kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư”. Sau khi có Giấy chứng nhận kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư, người đó lại phải nộp hồ sơ để được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư. Có chứng chỉ hành nghề luật sư, người đó vẫn chưa được hành nghề luật sư mà phải gia nhập đoàn và được cấp thẻ luật sư. Trong quá trình hành nghề, luật sư cũng chỉ cần xuất trình thẻ luật sư mà không cần xuất trình chứng chỉ hành nghề. Như thế “Giấy chứng nhận kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư” và “chứng chỉ hành nghề luật sư” có giá trị tương đương nhau mà lại được Luật luật sư quy định thành hai thủ tục hành chính riêng biệt. Điều này dẫn đến sự phiền phức, rườm rà

trong vấn đề thủ tục đối với mỗi người muốn hành nghề luật sư, cồng kềnh thêm bộ máy hành chính của Đoàn luật sư và cơ quan tư pháp.

Gia nhập đoàn luật sư là việc một người đăng ký tư cách thành viên, tham gia sinh hoạt tại một đoàn luật sư của địa phương và đăng ký hoạt động hành nghề luật sư tại địa phương đó. Điều 20 Luật luật sư quy định “Người có Chứng chỉ hành nghề luật sư có quyền lựa chọn gia nhập một Đoàn luật sư để hành nghề luật sư”. “Người đã gia nhập Đoàn luật sư phải làm việc theo hợp đồng lao động cho tổ chức hành nghề luật sư, hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức hoặc thành lập, tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư theo quy định của Luật này tại địa phương nơi Đoàn luật sư có trụ sở”. “Người gia nhập Đoàn luật sư được tổ chức luật sư toàn quốc cấp Thẻ luật sư theo đề nghị của Đoàn luật sư”. Điều lệ Liên đoàn luật sư Việt Nam lại quy định Thẻ luật sư “là giấy chứng nhận tư cách thành viên của đoàn luật sư và thành viên của liên đoàn luật sư”. Như vậy, Thẻ luật sư vừa làm chức năng là thẻ hội viên,vừa có ý nghĩa là giấy tờ công nhận luật sư và cho phép hành nghề luật sư.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

Một vấn đề được nhiều người quan tâm trong việc gia nhập đoàn luật sư đó chính là phí gia nhập Đoàn luật sư. Hiện nay, phí gia nhập các đoàn Luật sư ở mỗi đoàn đang có sự khác nhau. Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh không thu phí gia nhập đoàn, một số đoàn Luật sư ở các tỉnh khác cũng không thu phí gia nhập. Một số đoàn Luật sư có thu phí gia nhập đoàn Luật sư, đơn cử như đoàn Luật sư Hà Nội 10.000.000 đồng (mười triệu đồng), một số đoàn Luật sư cũng có thu phí gia nhập đoàn nhưng rất ít. Lý giải cho những sự khác nhau này có rất nhiều nguyên nhân. Việc thu phí gia nhập đoàn là quyền của mỗi đoàn Luật sư và hiện nay cũng chưa có văn bản nào của Bộ tư pháp hay cơ quan có thẩm quyền quy định vấn đề này. Thực tế việc quy định mức phí gia nhập đoàn là do ban chủ nhiệm đoàn Luật sư cân nhắc trên cơ sở thống nhất ý kiến của các hội viên. Tuy nhiên, việc có đoàn Luật sư thu phí, đoàn lại không và mức phí khác nhau, thậm chí rất chênh lệch nhau gây ảnh hưởng đến tâm lý của Luật sư và cũng như đang tạo ra những khó khăn cho Luật sư khi muốn gia nhập đoàn.

Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt nam thì chỉ khi gia nhập đoàn luật sư và được cấp thẻ luật sư thì mới chính thức trở thành luật sư và được hành nghề luật sư. Điều này không phù hợp với vấn đề lý luận bởi thẻ luật sư thực chất chỉ là thẻ hội viên của luật sư, còn chứng chỉ hành nghề luật sư mới thực sự là văn bản công nhận tư cách luật sư.

Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam - 6

Những quy định của pháp luật Việt Nam là chưa hợp lý. Cần nhận thức đúng hơn về ý nghĩa thực tế của chứng chỉ hành nghề luật sư và thẻ luật sư để có những quy định hợp lý hơn, tránh phiền phức gây cản trở cho những người muốn gia nhập đội ngũ luật sư của nước nhà.

2.2. Các quy định về hành nghề luật sư ở Việt Nam

Trong phần này, luận văn tập trung phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về giao dịch cung cấp dịch vụ pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư.

2.2.1 Quy định về tổ chức hành nghề luật sư:

Tổ chức hành nghề luật sư theo pháp luật Việt Nam gồm văn phòng luật sư, công ty luật hợp danh và công ty luật trách nhiệm hữu hạn.

Luật luật sư sửa đổi năm 2012 có quy định mới đối với điều kiện để thành lập tổ chức hành nghề luật sư đó là để thành lập hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư thì luật sư phải có ít nhất hai năm hành nghề liên tục làm việc theo hợp đồng lao động cho tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức theo quy định của Luật này. Theo đó sau ít nhất hai năm kể từ khi được cấp thẻ luật sư thì luật sư mới có thể thành lập công ty luật hoặc văn phòng luật sư. Quy định này nhằm hạn chế tình trạng các tổ chức hành nghề luật sư được mở ra một cách tràn lan. Hiện nay nhiều tổ chức hành nghề luật sư đã được mở ra nhưng không hề có hoạt động trên thực tế. Mục đích của quy định này là muốn các tổ chức hành nghề chỉ được thành lập khi luật sư thực sự có tâm huyết và thực sự muốn thực hiện các dịch vụ pháp lý của luật sư; đồng thời quy định thời gian hai năm là để luật sư có đủ điều kiện tiếp xúc và tích lũy kinh nghiệm thực tế trong hoạt động nghề nghiệp của mình. Bởi khi còn tập sự hành nghề luật sư, một người chỉ được “tập bơi trên cạn” mà chưa được xuống nước nên chưa thể có được những trải nghiệm, những kinh nghiệm thực tế trong nghề.

Điều luật còn quy định: một luật sư chỉ được thành lập hoặc tham gia thành lập một tổ chức hành nghề. Nghĩa là một luật sư chỉ được là thành viên của duy nhất một tổ chức hành nghề. Đây là điểm khác biệt giữa tổ chức hành nghề luật sư và các loại hình doanh nghiệp khác. Thêm nữa, khác với các loại hình công ty hợp danh được quy định trong luật doanh nghiệp, công ty luật hợp danh không được kết nạp thành viên góp vốn. công ty luật hợp danh là loại hình doanh nghiệp mà toàn bộ thành viên đều phải là thành viên hợp danh (Điều 130 luật doanh nghiệp 2005 và Điều 34 luật luật sư). Tuy nhiên, Khoản 1 Điều 133 luật doanh nghiệp lại cho phép thành

viên hơp

danh được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc là thành viên hơp

danh của

công ty hợp danh khác khác nếu được sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại. Như vậy, về vấn đề này, luật luật sư có quy định chặt chẽ hơn luật doanh nghiệp. Quy định này là hợp lý bởi hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư liên quan trực tiếp tới quyền lợi của con người, cùng với quy định nghề luật sư không được kiêm nhiệm, quy định này buộc luật sư phải chuyên tâm vào công việc cao quý của mình nhằm đem lại kết quả cao nhất trong hoạt động nghề nghiệp.

Cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy phép hoạt động cho tổ chức hành nghề luật sư là Sở Tư pháp. Đây cũng là một đặc thù riêng của tổ chức hành nghề luật sư so với các doanh nghiệp khác. Theo quy định của luật luật sư, tổ chức hành nghề luật sư đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp ở địa phương nơi có Đoàn luật sư mà Trưởng văn phòng luật sư hoặc Giám đốc công ty luật là thành viên. Công ty luật do luật sư ở các Đoàn luật sư khác nhau cùng tham gia thành lập thì đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp ở địa phương nơi có trụ sở của công ty. Việc thay đổi nội dung đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư cũng phải được Sở Tư pháp chấp nhận.

Điều 20 luật luật sư quy định “Người đã gia nhập Đoàn luật sư phải làm việc theo hợp đồng lao động cho tổ chức hành nghề luật sư, hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức hoặc thành lập, tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư theo quy định của Luật này tại địa phương nơi Đoàn luật sư có trụ sở”. Theo đó, tổ chức hành nghề luật sư chỉ được thành lập ở địa phương nơi có trụ sở của đoàn luật sư mà luật sư đó đã gia nhập. Điều 23 cũng dự liệu được trường hợp nhiều luật sư là thành viên của các đoàn luật sư khác nhau

cùng tham gia thành lập một tổ chức hành nghề luật sư. Trong trường hợp đó, các luật sư có thể lựa chọn thành lập và đăng ký hoạt động tại địa phương nơi có Đoàn luật sư mà một trong các luật sư đó là thành viên. Sau khi được cấp Giấy đăng ký hoạt động, các luật sư thành lập, tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư không phải là thành viên của Đoàn luật sư nơi có tổ chức hành nghề luật sư phải chuyển về gia nhập Đoàn luật sư nơi có tổ chức hành nghề luật sư hoặc chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư.

Tổ chức hành nghề luật sư có tính chất đặc thù hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác bởi dịch vụ mà nó cung cấp là dịch vụ pháp lý. Các thành viên của tổ chức này đều phải là luật sư và người đại diện theo pháp luật phải là luật sư thành viên của tổ chức hành nghề đó. Người đại diện theo pháp luật của Văn phòng luật sư là Trưởng Văn phòng. Trưởng Văn phòng luật sư là luật sư thành lập Văn phòng luật sư. Người đại diện theo pháp luật của Công ty luật hợp danh, Công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là Giám đốc Công ty. Giám đốc Công ty là một thành viên được các thành viên khác của Công ty thoả thuận cử làm Giám đốc. Việc thoả thuận cử Giám đốc Công ty phải được lập thành văn bản và có chữ ký của tất cả các thành viên của Công ty. Người đại diện theo pháp luật của Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên là Giám đốc Công ty. Luật sư chủ sở hữu Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên đương nhiên là Giám đốc Công ty.

Luật luật sư cũng quy định rõ về trách nhiệm tài sản của tổ chức hành nghề luật sư. Luật sư thành lập Văn phòng luật sư phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi nghĩa vụ của Văn phòng. Các luật sư thành lập Công ty luật hợp danh phải chịu trách nhiệm liên đới bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi nghĩa vụ của Công ty. Các luật sư thành viên của Công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên chịu trách nhiệm về mọi nghĩa vụ của Công ty trong phạm vi tài sản góp vào Công ty. Luật sư thành lập Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên chịu trách nhiệm về mọi nghĩa vụ của Công ty trong phạm vi phần tài sản của Công ty. Các quy định này hoàn toàn phù hợp với vấn đề lý luận.

Việc thành lập chi nhánh, văn phòng giao dịch của tổ chức hành nghề luật sư được quy định cụ thể tại điều 41 và 42 của luật luật sư. Chi nhánh của tổ chức hành

nghề luật sư được thành lập ở trong hoặc ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi tổ chức hành nghề luật sư đăng ký hoạt động. Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của tổ chức hành nghề luật sư, hoạt động theo sự ủy quyền của tổ chức hành nghề luật sư phù hợp với lĩnh vực hành nghề ghi trong Giấy đăng ký hoạt động. Tổ chức hành nghề luật sư phải chịu trách nhiệm về hoạt động của chi nhánh do mình thành lập. Trưởng chi nhánh là luật sư của tổ chức hành nghề luật sư, được tổ chức hành nghề cử làm trưởng chi nhánh. Các luật sư làm việc tại chi nhánh có thể là luật sư của Đoàn luật sư ở địa phương nơi tổ chức hành nghề luật sư đăng ký hoạt động hoặc nơi có trụ sở của chi nhánh. Khi thành lập chi nhánh tổ chức hành nghề luật sư cũng phải đăng ký tại Sở tư pháp địa phương nơi đặt trụ sở của chi nhánh.

Văn phòng giao dịch của tổ chức hành nghề luật sư được thành lập trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi tổ chức hành nghề luật sư đăng ký hoạt động. Văn phòng giao dịch là nơi tiếp nhận vụ, việc, yêu cầu của khách hàng. Văn phòng giao dịch không được phép thực hiện việc cung cấp dịch vụ pháp lý. Khi thành lập văn phòng giao dịch, tổ chức hành nghề luật sư phải thông báo bằng văn bản về địa chỉ của văn phòng giao dịch cho Sở Tư pháp, Đoàn luật sư ở địa phương nơi đăng ký hoạt động. Sở Tư pháp ghi địa chỉ của văn phòng giao dịch vào Giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư.

Ngoài ra, Tổ chức hành nghề luật sư còn được đặt cơ sở hành nghề luật sư ở nước ngoài. Trường hợp này, tổ chức hành nghề luật sư phải tuân theo quy định pháp luật của nước sở tại nơi đặt cơ sở hành nghề. Sau khi được cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cho phép đặt cơ sở hành nghề luật sư ở nước ngoài, hoặc khi chấm dứt hoạt động cơ sở hành nghề luật sư ở nước ngoài, tổ chức hành nghề luật sư phải thông báo bằng văn bản với Sở Tư pháp, cơ quan thuế, Đoàn luật sư ở địa phương nơi đăng ký hoạt động.

Tổ chức hành nghề luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý - một loại dịch vụ rất đặc thù, rất nhạy cảm, đó cũng là chất xám của con người. Chất lượng dịch vụ ảnh hưởng trực tiếp đến con người, có khi đến cả hệ thống pháp luật, chính trị và xã hội. Chất lượng dịch vụ không tốt không chỉ gây thiệt hại về tài sản mà còn có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới danh dự, tính mạng, sức khỏe của con người, tình hình an

ninh trật tự của một khu vực. Do đó, trách nhiệm của người cung cấp dịch vụ là vô cùng nặng nề. Các luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư phải ý thức được điều đó để cố gắng cung cấp được dịch vụ tốt nhất tới khách hàng.

Quyền và nghĩa vụ hành nghề của tổ chức hành nghề luật sư được quy định cụ thể tại điều 39 và điều 40 của Luật luật sư.

Theo đó, tổ chức hành nghề luật sư có các quyền: Thực hiện dịch vụ pháp lý; nhận thù lao từ khách hàng; thuê luật sư Việt Nam, luật sư nước ngoài và nhân viên làm việc cho tổ chức hành nghề luật sư; tham gia xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia tư vấn, giải quyết các vụ việc của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi được yêu cầu; hợp tác với tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài; thành lập chi nhánh, văn phòng giao dịch trong nước; đặt cơ sở hành nghề ở nước ngoài và các quyền khác theo quy định của pháp luật. Với tư cách là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tới khách hàng, Tổ chức hành nghề luật sư cũng có các quyền của doanh nghiệp theo quy định của điều 8 Luật doanh nghiệp 2005. Đó là các quyền:Chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng và ký kết hợp đồng; Tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động theo yêu cầu kinh doanh; Tự chủ quyết định các công việc kinh doanh và quan hệ nội bộ; Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của doanh nghiệp;Từ chối mọi yêu cầu cung cấp các dịch vụ không được pháp luật quy định; Khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo; Trực tiếp hoặc thông qua người đại diện theo uỷ quyền tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.

2.2.2 Các quy định của pháp luật Việt Nam về Hợp đồng dịch vụ pháp lý

Cung cấp dịch vụ pháp lý cũng là một hoạt động thương mại nên nó chịu sự điều chỉnh của Luật luật sư, luật thương mại, luật dân sự, Luật doanh nghiệp và các văn bản pháp luật khác có liên quan.

Chủ thể của hợp đồng dịch vụ pháp lý gồm bên cung ứng dịch vụ pháp lý và bên sử dụng dịch vụ pháp lý. Để được tham gia vào quan hệ Hợp đồng dịch vụ pháp lý với tư cách là bên cung cấp dịch vụ pháp lý, tổ chức hành nghề cung ứng dịch vụ pháp lý phải có năng lực chủ thể bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Theo quy định tại Điều 86 Bộ luật dân sự về năng lực hành vi dân sự của pháp nhân và các luật chuyên ngành về dịch vụ pháp lý thì năng lực chủ thể của tổ chức

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 18/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí