Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam - 7

cung ứng dịch vụ pháp lý phát sinh cùng một thời điểm đó là ngày tổ chức hành nghề được thành lập hợp pháp. Tổ chức hành nghề luật sư được thành lập khi được Giám đốc Sở Tư pháp cấp Giấy đăng ký hoạt động luâṭ sư . Từ thời điểm được thành lập các tổ chức hành nghề luật sư được bắt đầu cung ứng các dịch vụ pháp lý thuộc

lĩnh vực hành nghề đã đăng ký cho khách hàng . Bên có nhu cầu sử duṇ g dị ch vụ pháp lý (gọi chung là khách hàng ). Mọi tổ chứ c, cá nhân bất kỳ có năng lực chủ thể

bao gồm năng lực pháp luật và năng lưc haǹ h vi đều có quyền tham gia quan hệ hợp

đồng dịch vụ pháp lý để thỏa mãn nhu cầu về pháp lý của mình.

Đối tượng của hợp đồng dịch vụ pháp lý là công việc phải thực hiện. Đó chính là các loại dình dịch vụ pháp lý mà tổ chức hành nghề luật sư cung cấp cho khách hàng. Điều 4 Luật luật sư 2006 (sửa đổi, bổ sung 2012) quy định: “dịch vụ pháp lý của luật sư bao gồm tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và các dịch vụ pháp lý khác”; Điều 22 luật luật sư quy định phạm vi hành nghề của luật sư gồm: i) Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự; ii) Tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật;

iii) Thực hiện tư vấn pháp luật; iv) Đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật; v) Thực hiện dịch vụ pháp lý khác theo quy định của Luật luật sư. Như vậy, luật luật sư không định nghĩa dịch vụ pháp lý của luật sư mà chỉ nêu các loại dịch vụ pháp lý của luật sư (Điều 4) và làm rõ hơn các loại dịch vụ pháp lý đó bằng việc xác định phạm vi hành nghề của luật sư (Điều 22). Từ đó có thể khẳng định rằng các tổ chức hành nghề luật sư có thể cung ứng cho khách hàng bốn loại dịch vụ pháp lý chủ yếu là tư vấn pháp luật, tranh tụng, đại diện và các dịch vụ pháp lý khác.

Điều 24 Luật luật sư và Quy tắc 6 trong Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư Việt Nam (sau đây gọi là bộ quy tắc) nêu lên những trách nhiệm của tổ chức hành nghề luật sư khi nhận vụ việc của khách hàng. Khi nhận vụ việc của khách hàng, tổ chức hành nghề luật sư phải tôn trọng sự lựa chọn của khách hàng. Khách hàng có quyền lựa chọn tổ chức hành nghề luật sư, chọn luật sư trong tổ chức hành nghề luật sư, lựa chọn phạm vi công việc yêu cầu luật sư. Tổ chức hành nghề luật sư và luật sư thực hiện phải tôn trọng tất cả những sự lựa chọn đó của khách hàng. Luật sư có nghĩa vụ giải thích cho khách hàng tính hợp pháp trong yêu cầu của khách hàng, quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ giữa luật sư với khách hàng, quyền khiếu nại tố cáo của khách hàng trong mối quan hệ này. Tất cả các khách hàng đến với tổ chức hành nghề luật sư đều nhận được sự đối xử như nhau không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giới tính , tuổi tác, tình hình tài sản…. Tổ chức hành nghề luật sư không được chuyển giao vụ việc của khách hàng cho tổ chức hành nghề luật sư khác trừ trường hợp khách hàng đồng ý và trường hợp bất khả kháng.

Tổ chức hành nghề luật sư thực hiện cung cấp dịch vụ tới khách hàng theo hợp đồng dịch vụ pháp lý. Hình thức của hợp đồng dịch vụ pháp lý phải tuân theo quy định tại điều 74 Luật Thương mại và điều 26 Luật luật sư. Theo đó trừ trường hợp luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng và luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức Hợp đồng dịch vụ pháp lý phải được lập thành văn bản. LLS quy định Hợp đồng dịch vụ pháp lý của luật sư phải được làm thành văn bản tỏ ra không hoàn toàn phù hợp với thực tế hoạt động dịch vụ pháp lý của luật sư. Ngoài ra, việc LLS quy định: “Luật sư thực hiện Hợp đồng dịch vụ pháp lý theo Hợp đồng dịch vụ pháp lý, trừ trường hợp luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng…” là không đúng với thực tế hiện nay vì luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng đều thông qua Hợp đồng dịch vụ pháp lý bằng văn bản với cơ quan tiến hành tố tụng..

Hợp đồng dịch vụ pháp lý phải có đầy đủ các nội dung chính sau: Tên, địa chỉ của khách hàng hoặc người đại diện của khách hàng, đại diện của tổ chức hành nghề

luật sư; Nội dung dịch vụ; thời hạn thực hiện hợp đồng; Quyền, nghĩa vụ của các bên; Phương thức tính và mức thù lao cụ thể; các khoản chi phí (nếu có); Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; Phương thức giải quyết tranh chấp. Theo quy định tại điều 519 của Bộ luật dân sự 2005, đối tượng của hợp đồng là công việc có thể thực hiện được, không bị pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội. Theo quy định đó thì đối tượng của hợp đồng dịch vụ pháp lý chính là công việc cung cấp dịch vụ pháp lý mà cụ thể là các công việc: tranh tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và các công việc cung cấp dịch vụ pháp lý khác.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

Tổ chức hành nghề luật sư có nghĩa vụ phải từ chối cung cấp dịch vụ pháp lý nếu xảy ra các trường hợp quy định tại Quy tắc 9.1 của Bộ quy tắc: Luật sư không đủ khả năng chuyên môn hoặc điều kiện thực tế để thực hiện vụ việc; Khách hàng thông qua người khác yêu cầu luật sư mà người này có biểu hiện lợi dụng tư cách đại diện cho khách hàng để mưu cầu lợi ích cá nhân làm ảnh hưởng đến uy tín của luật sư và quyền lợi hợp pháp của khách hàng; Khách hàng yêu cầu dịch vụ pháp lý của luật sư với ý định lợi dụng dịch vụ đó cho mục đích khác hoặc khách hàng không tự nguyện mà bị phụ thuộc theo yêu cầu không chính đáng của người khác; Có căn cứ rõ ràng xác định khách hàng đã cung cấp chứng cứ giả hoặc yêu cầu của khách hàng không có cơ sở, trái đạo đức, trái pháp luật; Có sự xung đột về lợi ích theo Quy tắc 11.1 mà không giải quyết được nếu tiếp nhận vụ việc đó; Khách hàng có thái độ không tôn trọng luật sư và nghề luật sư và không thay đổi thái độ này.

Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng dịch vụ pháp lý không được luật luật sư quy định thành một điều luật riêng nhưng trong các điều luật, trong các văn bản hướng dẫn thi hành luật luật sư và trong Bộ quy tắc ứng xử đều có quy định đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo như quy định chung tại Bộ luật dân sự và luật thương mại. Theo đó, khách hàng có quyền yêu cầu tổ chức hành nghề luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý kịp thời, đầy đủ theo thỏa thuận; được biết các thông tin liên quan đến quá trình giải quyết công việc của luật sư; được đơn phương chấm dứt hợp đồng nếu bên cung cấp dịch vụ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ. Cùng với đó, khách hàng cũng có nghĩa vụ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư như cung cấp đầy đủ tài liệu, thông tin cần thiết để luật sư giải quyết

Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam - 7

vụ việc; tiến hành thanh toán phí dịch vụ theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý. Song song với quyền và nghĩa vụ của khách hàng, tổ chức hành nghề luật sư cũng có những nghĩa vụ và quyền tương ứng. Tổ chức hành nghề luật sư có quyền yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu, thông tin liên quan đến việc giải quyết vụ việc; quyền yêu cầu khách hàng thanh toán các chi phí theo thỏa thuận tại hợp đồng; quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng dịch vụ pháp lý theo quy định của pháp luật. Tổ chức hành nghề luật sư có nghĩa vụ phải cung cấp dịch vụ pháp lý kịp thời, đầy đủ cho khách hàng theo thỏa thuận; thường xuyên thông báo với khách hàng tiến trình giải quyết vụ việc; Bảo quản và giao lại cho khách hàng những tài liệu mà khách hàng cung cấp; Giữ bí mật về thông tin mà mình biết được trong quá trình cung cấp dịch vụ; đơn phương chấm dứt hợp đồng dịch vụ pháp lý nếu xảy ra các trường hợp quy định tại Quy tắc 10 của Bộ quy tắc.

Điều 25 Luật luật sư và Quy tắc 12 trong Bộ quy tắc đã cụ thể hóa quy định về nghĩa vụ bảo mật thông tin, từ đó thấy rằng đây là một nghĩa vụ đặc biệt quan trọng của tổ chức hành nghề luật sư và cá nhân mỗi luật sư trong quá trình cung cấp dịch vụ pháp lý. Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng khi thực hiện dịch vụ pháp lý và cả khi đã kết thúc dịch vụ đó, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc theo quy định của pháp luật. Tổ chức hành nghề luật sư có trách nhiệm bảo đảm các nhân viên trong tổ chức hành nghề không tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng của mình.

Giá trị của hợp đồng dịch vụ pháp lý được quy định tại điều 524 Bộ luật dân sự, điều 86 Luật thương mại và Chương IV Luật luật sư cùng một số văn bản liên quan. Theo đó giá trị hợp đồng dịch vụ pháp lý do các bên thỏa thuận và không được trái với các quy định của pháp luật. Giá trị hợp đồng dịch vụ pháp lý bao gồm thù lao luật sư và các chi phí hợp lý. Thù lao luật sư được thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý dựa trên các căn cứ sau đây: Nội dung, tính chất của dịch vụ pháp lý; Thời gian và công sức của luật sư sử dụng để thực hiện dịch vụ pháp lý; Kinh nghiệm và uy tín của luật sư. Thù lao được tính theo các phương thức sau đây: Giờ làm việc của luật sư; Vụ, việc với mức thù lao trọn gói; Vụ, việc với mức thù lao tính theo tỷ lệ phần trăm của giá ngạch vụ kiện hoặc giá trị hợp đồng, giá trị dự

án; Hợp đồng dài hạn với mức thù lao cố định. Riêng đối với vụ án hình sự mà luật sư tham gia tố tụng thì mức thù lao không được vượt quá mức trần thù lao do Chính phủ quy định. Mức trần này được quy định tại Nghị định 123/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24 tháng 10 năm 2013 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật luật sư. Nghị định quy định mức cao nhất cho 01 giờ làm việc của luật sư không được vượt quá 0,3 lần mức lương cơ sở do Chính phủ quy định, tương đương 345.000 đồng/giờ. Đồng thời, đối với những vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu luật sư thì mức thù lao được trả cho 01 ngày làm việc của luật sư là 0,4 lần mức lương cơ sở, tương đương 460.000 đồng/ngày. Các chi phí hợp lý bao gồm tiền tàu xe, lưu trú và các chi phí hợp lý khác cho việc thực hiện dịch vụ pháp lý. Các chi phí này cũng do các bên thoả thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý. Đối với những vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu luật sư, trong quá trình chuẩn bị và tham gia bào chữa tại phiên tòa và các cơ quan tiến hành tố tụng, luật sư được thanh toán chi phí tàu xe, lưu trú theo quy định về chế độ công tác phí cho công chức, cán bộ Nhà nước đi công tác trong nước.

Sau khi hợp đồng dịch vụ pháp lý có hiệu lực, các bên sẽ cùng hợp tác để thực hiện hợp đồng. Tổ chức hành nghề luật sư giao vụ việc của khách hàng cho một hoặc các luật sư cùng thực hiện. Luật sư nghiên cứu hồ sơ vụ việc, liên hệ với cá nhân, tổ chức có liên quan để thu thập chứng cứ tìm ra hướng giải quyết vụ việc theo hướng bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của khách hàng. Tổ chức hành nghề luật sư phối hợp, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để luật sư làm việc. Để thực hiện tốt công việc của mình, nếu xét thấy cần thiết, luật sư có thể yêu cầu khách hàng cung cấp thêm các tài liệu, thông tin và các chứng cứ khác.

Đối với hợp đồng pháp lý có thỏa thuận về việc tư vấn pháp luật, sau khi ký hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng, tổ chức hành nghề luật sư giao vụ việc cho một hoặc các luật sư nghiên cứu sau đó hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp khách hàng soạn thảo các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ. Các công việc này được quy định tại điều 28 Luật luật sư. Kết quả của quá trình làm việc của luật sư được thể hiện bằng hình thức là thư tư vấn gửi tới khách hàng hoặc tư vấn bằng lời nói nếu khách hàng yêu cầu, văn bản giấy tờ liên quan đến việc thực

hiện quyền và nghĩa vụ của khách hàng. “Khi thực hiện tư vấn pháp luật, luật sư phải giúp khách hàng thực hiện đúng pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ”. Quy định tại điều 28 Luật luật sư chưa thể hiện được bản chất và tầm quan trọng của hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư. Hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư gồm các hoạt động: cung cấp tới khách hàng các quy định của pháp luật, giải thích các quy định đó đồng thời định hướng hành vi cho khách hàng. “Hướng dẫn”, “đưa ra ý kiến” có phạm vi quá rộng chưa thể hiện được bản chất của tư vấn pháp luật. “Giúp khách hàng soạn thảo các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ” lại chỉ là một hoạt động rất nhỏ trong việc tư vấn pháp luật của luật sư, chưa đủ tính khái quát.

Nếu hợp đồng dịch vụ pháp lý thỏa thuận việc đại diện ngoài tố tụng, tổ chức hành nghề luật sư cử luật sư ký hợp đồng ủy quyền với khách hàng và thực hiện các công việc theo đúng phạm vi ủy quyền. Nếu hợp đồng dịch vụ pháp lý có thỏa thuận về các dịch vụ pháp lý khác, tổ chức hành nghề luật sư cử luật sư thực hiện các dịch vụ pháp lý đó theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý. Theo quy định tại điều 29 Luật luật sư thì hoạt động đại diện ngoài tố tụng của luật sư là “Luật sư đại diện cho khách hàng để giải quyết các công việc có liên quan đến việc mà luật sư đã nhận theo phạm vi, nội dung được ghi trong hợp đồng dịch vụ pháp lý hoặc theo sự phân công của cơ quan, tổ chức nơi luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động”. Cụ thể, Luật sư đại diện cho khách hàng trong việc đàm phán, ký kết hợp đồng; đại diện trong việc liên hệ làm việc với các cơ quan nhà nước hoặc các cơ quan tổ chức khác; đại diện khách hàng trả lời truyền thông, báo chí... “Khi đại diện cho khách hàng, luật sư có quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật có liên quan”. Pháp luật có liên quan ở đây là pháp luật về luật sư, pháp luật dân sự và pháp luật về lĩnh vực mà luật sư tham gia đại diện cho khách hàng... Điều 30 Luật sư quy định “Dịch vụ pháp lý khác của luật sư bao gồm giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc liên quan đến thủ tục hành chính; giúp đỡ về pháp luật trong trường hợp giải quyết khiếu nại; dịch thuật, xác nhận giấy tờ, các giao dịch và giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc khác theo quy định của pháp luật”. “Khi thực hiện dịch vụ pháp lý khác, luật sư có quyền, nghĩa vụ theo quy định

của pháp luật có liên quan”. Các dịch vụ pháp lý phổ biến hiện nay là giúp cá nhân tổ chức thực hiện các dịch vụ pháp lý như thủ tục thành lập doanh nghiệp, chuyển nhượng quyền sử dụng bất động sản, xuất nhập cảnh, …

Đối với hợp đồng dịch vụ pháp lý có thỏa thuận về việc luật sư tranh tụng, tổ chức hành nghề luật sư cử luật sư tham gia quá trình tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc/và người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng trước các cơ quan tiến hành tố tụng. Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư tuân theo các quy định của pháp luật về tố tụng và pháp luật về luật sư. Luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích của khách hàng phải làm hồ sơ đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận tham gia tố tụng. Sau khi được cấp Giấy chứng nhận này, luật sư thực hiện các quyền của mình theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền lợi của khách hàng.

Theo quy định của luật luật sư, hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng gồm thẻ luật sư và giấy yêu cầu luật sư của khách hàng hoặc của người khác. Trong trường hợp luật sư tham gia tố tụng trong vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hoặc trong trường hợp thực hiện trợ giúp pháp lý, hồ sơ gồm bản cử luật sư của tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó hành nghề hoặc văn bản phân công của Đoàn luật sư đối với luật sư hành nghề với tư cách cá nhân. Thời gian cấp giấy chứng nhận tham gia tố tụng cho luật sư là ba ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Tuy nhiên luật luật sư 2012 quy định thêm trường hợp đối với người bị tạm giữ thì thời gian cấp giấy chứng nhận tham gia tố tụng cho luật sư của họ là chậm nhất 24 giờ kể từ khi nhận được giấy tờ hợp lệ.Giấy chứng nhận người bào chữa có giá trị trong các giai đoạn tố tụng, trừ trường hợp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo từ chối hoặc yêu cầu thay đổi Luật sư hoặc luật sư không được tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật. Đây là một loạt các điểm tích cực của luật luật sư sửa đổi bổ sung năm 2012 so với các quy định trước kia của pháp luật.

Theo quy định của luật tố tụng dân sự điều 63 quy định: Luật sư có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhiều đương sự trong cùng một vụ án nếu quyền

và lợi ích hợp pháp của họ không đối lập nhau. Điều 64 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: luật sư có thể tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào trong quá trình tố tụng dân sự. Luật sư được tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm nếu Toà án xét thấy cần thiết. Trên thực tế, phiên tòa giám đốc thẩm và tái thẩm rất ít trường hợp có luật sư tham gia. Luật sư tham gia tố tụng dân sự để Giúp đương sự về mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Cụ thể, Luật sư tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho Toà án, nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; Tham gia việc hoà giải, tham gia phiên toà, tranh luận tại phiên tòa hoặc có văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; Thay mặt đương sự yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này.

Theo quy định của luật tố tụng hình sự, luật sư có vai trò là người bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên các đương sự khác, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện và sửa chữa những thiếu sót, làm sáng tỏ sự thật khách quan, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Việc đảm bảo vai trò này được quy định cụ thể trong Bộ luật tố tụng hình sự và thông tư số 70/2011/TT-BCA ngày 10/10/2011 của Bộ công an quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự liên quan đến việc bảo đảm quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (sau đây gọi tắt là thông tư 70). Các văn bản pháp luật này tuy đã cố gắng tạo điều kiện cho luật sư trong quá trình hành nghề nhưng cũng không tránh được các bất cập gây khá nhiều khó khăn cho luật sư. Theo quy định của khoản 1 Điều 58 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, Luật sư được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can và trong trường hợp bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì luật sư được tham gia từ khi có quyết định tạm giữ. Điều 58 luật tố tụng hình sự cho luật sư nhiều quyền nhưng việc thực hiện được các quyền đó còn là một bài toán nan giản, đã nhiều lần được đặt ra nhưng chưa có câu trả lời thích đáng. Cách sử dụng từ ngữ của điều luật cũng còn nhiều tranh cãi: người bào chữa có quyền

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 18/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí