Sự Cần Thiết Của Việc Hoàn Thiện Pháp Luật Về Dạy Và Học Nghề.


CHƯƠNG 3

SỰ CẦN THIẾT VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DẠY VÀ HỌC NGHỀ

***

3.1. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DẠY VÀ HỌC NGHỀ.

3.1.1. Những lý do chủ quan.


Những lý do chủ quan ở đây được hiểu là những lý do nhằm khắc phục những khiếm khuyết của hệ thống pháp luật về dạy và học nghề, cũng như những tồn tại trong cơ chế áp dụng chúng.

Pháp luật về dạy và học nghề trong thời gian qua đã phần nào đáp ứng được nhu cầu của việc dạy và học nghề, đáp ứng với thị trường lao động đang phát triển. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về dạy và học nghề đang có những thay đổi cơ bản theo xu hướng ngày càng nhiều về số lượng và hoàn thiện về chất lượng. Đặc biệt là sự ra đời của Bộ luật lao động ngày 23/6/1994 đã tạo ra những khởi sắc mới trong việc ghi nhận cụ thể về vấn đề dạy và học nghề. Lần đầu tiên, vấn đề này được coi là một chế định cơ bản, quan trọng nằm trong cơ cấu chung của Bộ luật lao động. Bộ luật lao động ra đời bên cạnh việc ghi nhận quyền bình đẳng giữa người lao động, người sử dụng lao động, ghi nhận quyền thiết lập, gia nhập công đoàn của người lao động, quyền đình công thì trong Bộ luật cũng ghi nhận việc điều chỉnh các lĩnh vực mới phát sinh trên thị trường, các quan điểm nhìn nhận mới về việc làm, học nghề đáp ứng yêu cầu giải phóng sức lao động, phát triển ở mức tối đa nguồn nhân lực, khuyến khích và bảo vệ người lao động được tự do lựa chọn việc làm, giải quyết, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm. Đặc biệt, Bộ luật

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.


Chế độ dạy và học nghề theo pháp luật lao động Việt Nam - 13

lao động cũng ghi nhận quyền học nghề là một quyền cơ bản của công dân. Nhà nước cho phép và khuyến khích các cá nhân tham gia học nghề, tự do lựa chọn nghề cho phù hợp với nhu cầu việc làm của mình và các cơ sở dạy nghề được tiến hành hoạt động dạy nghề khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.

Bộ luật lao động với những quy định về dạy và học nghề ghi nhận điều kiện của người học nghề, trách nhiệm của cơ sở dạy nghề, chế độ ưu đãi đối với cơ sở dạy nghề cho các đối tượng đặc biệt, hợp đồng học nghề, tranh chấp về hợp đồng học nghề, đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ...đã đánh dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của quá trình dạy và học nghề. Có thể nói việc dạy và học nghề đã có một hành lang pháp lý để tồn tại, hoạt động và thay đổi, thu hút việc tham gia ngày càng nhiều của các chủ thể vào lĩnh vực này. Chế độ dạy và học nghề được Bộ luật lao động ghi nhận đã bước đầu thể chế hóa được các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc dạy và học nghề để quá trình này ngày càng phát huy vai trò trong quá trình phát triển ở nước ta. Tuy nhiên, do ban hành trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế mới đang hình thành và phát triển chưa thay thế được cơ chế cũ, do vậy việc thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng thành cơ chế chính sách cụ thể trong Bộ luật lao động đã chịu tác động mạnh mẽ của tình hình thực tế đất nước và hướng cải cách. Bộ luật lao động được xây dựng trong thời điểm hệ thống pháp luật nước ta chưa đồng bộ, hoàn chỉnh, một số quan hệ mới phát sinh hoặc chưa trở thành vấn đề phổ biến, nổi bật trong đời sống lao động xã hội, nhiều quy định của Bộ luật chưa được lượng hóa, nhiều vấn đề chưa được ghi nhận cụ thể như trường hợp dạy nghề có vốn đầu tư nước ngoài. Mặt khác, mặc dù đã hoàn thành một số lượng lớn các văn bản hướng dẫn thi hành nhưng cho đến nay có những quy định vẫn chưa được


ban hành như việc hướng dẫn về các trường hợp bất khả kháng khi chấm dứt hợp đồng học nghề hay có những văn bản được ban hành chậm làm quá trình thực hiện gặp vướng mắc như các quy định về việc ban hành bằng nghề và chứng chỉ nghề, quy định về việc ban hành quy chế tạm thời về cấp và quản lý bằng nghề, chứng chỉ nghề, các quy định việc quản lý Nhà nước về dạy nghề...

Ngoài ra, có một số văn bản hướng dẫn chưa thể hiện đúng quy định của luật, làm cho việc thực hiện gặp khó khăn như việc đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ theo Điều 110. Bên cạnh đó, một số quy định trong Bộ luật lao động và học nghề không được thực hiện hoặc thực hiện không đạt hiệu quả trên thực tế như: trường hợp quy định trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc nâng cao trình độ cho người lao động và đào tạo lại trước khi chuyển người lao động sang làm việc khác, doanh nghiệp tuyển người vào học nghề để làm việc tại doanh nghiệp thì không thu học phí, hay truờng hợp doanh nghiệp phải thành lập quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm để đào tạo thêm nghề dự phòng cho lao động nữ. Nghị định 90/CP ngày 15/12/1995 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về học nghề được coi là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất để điều chỉnh Bộ luật lao động trong lĩnh vực học nghề giai đoạn đó, nhưng cũng có những khiếm khuyết không thể khuyến khích, thu hút được các cá nhân và cơ sở dạy nghề tham gia. Nghị định 90/CP chưa quy định cụ thể khái niệm học nghề, hợp đồng học nghề, quy mô, hình thức đào tạo nghề, chính sách đầu tư, ưu đãi cho dạy nghề, dạy nghề có vốn đầu tư nước ngoài và quản lý Nhà nước về dạy nghề. Đến nay, Nghị định 02/NĐ-CP ngày 09/01/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Bộ luật lao động và Luật giáo dục về dạy nghề đã khắc phục được những tồn tại trên. Có thể nói, Nghị định 02/CP là văn bản có giá trị pháp


lý cao nhất từ trước đến nay để hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về học nghề. Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước đòi hỏi phải đào tạo một nguồn nhân lực dồi dào về số lượng và chất lượng đội ngũ công nhân lành nghề, kỹ thuật cao, đội ngũ nhân viên nghiệp vụ thành tạo thì Nghị định 02/CP vẫn còn những hạn chế nhất định. Để quan hệ pháp luật về dạy nghề và học nghề phát triển, khẳng định một vị trí, chỗ đứng quan trọng trong xã hội, để thu hút được ngày càng nhiều các chủ thể tham gia vào quan hệ này điều kiện đầu tiên, tất yếu là phải có một hệ thống pháp luật về dạy và học nghề hoàn thiện, đồng bộ, thống nhất, đảm bảo tính logic, tính khoa học cao. Yêu cầu cấp bách hiện nay phải sửa đổi các điều luật không còn phù hợp, bổ sung các điều luật để điều chỉnh các lĩnh vực, vấn đề liên quan mật thiết tới quá trình dạy và học nghề, ban hành một văn bản có giá trị pháp lý cao nhất là Luật về dạy và học nghề tạo môi trường pháp lý cho quan hệ pháp luật về dạy và học nghề phát triển, thực hiện có hiệu quả cao. Trước tình hình như vậy, có thể nói, hoàn thiện pháp luật về dạy và học nghề là yêu cầu cấp thiết được đặt ra trong điều kiện hiện nay để phù hợp với yêu cầu thực hiện chiến lược kinh tế-xã hội và yêu cầu hội nhập kinh tế-quốc tế.

3.1.2. Những lý do khách quan.


Những lý do khách quan ở đây là việc đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cũng như sự chuyển đổi, phản ánh pháp luật và thông lệ quốc tế trong lĩnh vực dạy và học nghề.

Công nghiệp hóa là một quá trình lâu dài nhằm xây dựng một xã hội hiện đại, đạt trình độ văn minh trên tất cả các mặt. Lịch sử phát triển của các nước trên thế giới cho thấy rằng công nghiệp hóa là biện pháp chủ


yếu để biến một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành một nền kinh tế hiện đại, trong đó công nghiệp giữ vai trò chủ đạo. Công nghiệp hóa là nấc thang tất yếu mà bất cứ nước nào cũng phải trải qua để trở nên giàu có và hùng mạnh.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa được hiểu “là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế-xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và biện pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. [27]

Quá trình tiến hành công nghiệp hóa là một quá trình dài đầy khó khăn. Trước bối cảnh cuộc cách mạng xã hội kỹ thuật đang diễn ra như vũ bão với những thành tựu mới về khoa học và công nghệ tiên tiến hiện đại trên thế giới, sự ra đời và tác động mạnh của nền kinh tế tri thức kết hợp với xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, khả năng ổn định và phục hồi của nền kinh tế khu vực và thế giới trong thập kỷ qua có những tác động tích cực đã tạo đà cho nước ta tiến hành phát triển công nghiệp hóa-hiện đại hóa. Con đường công nghiệp hóa-hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức.Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt

Nam.28,91] Muốn tiến hành xây dựng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta phải thực hiện các nội dung cơ bản.


Thứ nhất: Về kinh tế và công nghệ phải vừa có bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt.

Thứ hai: Phát huy những lợi thế của đất nước, gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ tiên tiến, hiện đại về khoa học và nghệ đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, phát triển kinh tế tri thức.

Thứ ba: Phát huy nguồn lực con người, trong đó đặc biệt coi trọng phát triển giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Có thể nói đáp ứng được yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa-hiện đại hóa.

Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta phải gắn liền với việc xây dựng nền kinh tế tri thức. Theo giáo sư-tiến sĩ Đỗ Thế Tùng, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thì trong nền kinh tế tri thức, việc ứng dụng những thành tựu mới nhất của cách mạng khoa học và công nghệ tác động đến cơ cấu lao động theo bồi hướng cơ bản:

Thứ nhất: Nguồn lực con người có tri thức đóng góp vai trò trung tâm của sự phát triển.

Thứ hai: Tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm đến mức rất nhỏ và tỷ trọng lao động công nghiệp đến nay cũng giảm xuống, tỷ trọng lao động dịch vụ ngày một tăng.

Thứ ba: những người nghiên cứu, ứng dụng công nghệ thông tin, các cán bộ chuyên môn có trình độ bậc đại học tăng nên không ngừng, những công nhân truyền thống làm việc trong những lĩnh vực sản xuất, vận chuyển sản phẩm và công nhân tạp vụ giảm xuống.


Thứ tư: Các ngành công nghệ cao đòi hỏi lực lượng lao động trí óc sáng tạo tiêu biểu cho xu thế phát triển chủ yếu hiện nay của nền kinh tế trị thức.

Như vậy, muốn tiến hành công nghiệp hóa nước ta phải chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Đây là hai nhiệm vụ phải thực hiện đồng thời bổ sung cho nhau, phải nắm bắt các tri thức và công nghệ mới nhất của thời đại để hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, đồng thời phát triển nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức, khoa học và công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành kinh tế tri thức. Để đáp ứng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và kinh tế tri thức, không có gì khác hơn là phải đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Có thể nói “phát triển con người trở thành nhu cầu trước tiên, nhu cầu cơ bản nhất và là trung tâm của mọi quá trình phát triển. Nhu cầu đó nếu được đáp ứng sẽ trở thành động lực và nguồn lực vô hạn thúc đẩy xã hội phát triển và là sự mở đầu

tạo ra tiến bộ xã hội” [6,9]. Đào tạo nguồn nhân lực phát huy nhân tố con

người phải đảm bảo nguồn nhân lực đó đủ lớn về số lượng, mạnh về chất lượng và có tay nghề cao, nguồn nhân lực này phải làm chủ được tiến bộ công nghệ và tri thức khoa học, giỏi nghiệp vụ, tay nghề thành thạo, có nhiều đội ngũ nhân viên nghiệp vụ lành nghề, có đủ khả năng tiếp cận thiết bị kỹ thuật hiện đại, có khả năng cạnh tranh thị trường sức lao động trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, phát triển nguồn nhân lực phải lấy giáo dục và đào tạo, trong đó có sự nghiệp dạy nghề làm khâu đột phá của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, trong đó nguồn lực trung tâm là con người được đào tạo để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.


Như vậy, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là cơ sở của sự phát triển bền vững trong đó dạy nghề là khâu đột phá có ý nghĩa trong việc thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nếu thiếu sự trưởng thành về mặt chất lượng của lực lượng lao động nói chung, đặc biệt là của đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề, nhân viên nghiệp vụ thì công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ bị bó hẹp về quy mô, tốc độ và bị hạn chế ở hiệu quả. Giáo dục và đào tạo, trong đó có dạy nghề vừa có ý nghĩa chiến lược, vừa có ý nghĩa trực tiếp tác động đến sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đến lượt mình, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong sự phát triển của nó lại tạo khả năng và điều kiện thuận lợi cho việc hiện đại hóa công tác dạy nghề và giáo dục-đào tạo. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường duy nhất để thúc đẩy sự phát triển lĩnh vực giáo dục- đào tạo và dạy nghề. Hai quá trình này tác động qua lại và gắn bó chặt chẽ với nhau, chúng vừa là tiền đề vừa là kết quả của nhau. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ tạo nên những điều kiện mới thúc đẩy sự phát triển của giáo dục-đào tạo và dạy nghề theo hướng hiện đại mà còn đặt nó trước hàng loạt những yêu cầu mới, thách thức mới, đặc biệt là đối với sự nghiệp dạy nghề.

Đứng trước yêu cầu khách quan về sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và kinh tế tri thức cần phải thực hiện xã hội hóa sự nghiệp dạy nghề, đa dạng hóa các loại hình trường lớp, trên cơ sở các trường dạy nghề công lập giữ vai trò nòng cột. Nhanh chóng hiện đại hóa một số trường dạy nghề, tăng nhanh tỷ lệ thợ lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề bậc cao trong toàn bộ lao động xã hội, khuyến khích phát triển hệ thống các trường dạy nghề dân lập và tư thục theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IX đề ra.

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 26/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí