Giải Pháp Nâng Cao Năng Lực Người Tiến Hành Tố Tụng Và Luật Sư Tại Phiên Tòa

luật hình sự đó chưa tốt thì hiệu quả pháp luật vẫn không đạt được, tính pháp chế chưa cao. Cho nên, cần xây dựng một đội ngũ cán bộ tư pháp nói chung, đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, đặc biệt là Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân càng đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, có kinh nghiệm và có bản lĩnh chính trị vững vàng để đáp ứng được yêu cầu đặt ra.

Trong hoạt động tố tụng hình sự, những người tiến hành tố tụng như: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán giữ vai trò rất quan trọng trong toàn bộ vụ án, đặc biệt là việc xét xử và áp dụng pháp luật, trong đó có việc định tội danh và quyết định hình phạt. Vì vậy, yêu cầu nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và làm tốt công tác tổ chức, cán bộ đóng vai trò thiết yếu và được thể hiện cụ thể như sau:

Thứ nhất, ngành dọc về Tư pháp ở Trung ương và địa bàn thành phố Đà Nẵng phải thường xuyên tổ chức lớp tập huấn nghiệp vụ chuyên sâu về lĩnh vực pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự cho đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán nhằm đào tạo, bồi dưỡng và cập nhật kịp thời các kiến thức mới, các phương thức, thủ đoạn, các hình thức phạm tội mới cho đội ngũ cán bộ này. Riêng đối với các vụ án giết người cần tổng kết, rút kinh nghiệm những vụ án có tình tiết phức tạp, khó về chuyên môn, nghiệp vụ, chưa thống nhất về mặt lý luận định tội danh, phương thức đấu tranh, xử lý.

Thứ hai, các cơ quan có thẩm quyền tại thành phố Đà Nẵng cần tổ chức tuyển chọn đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, đội ngũ có vai trò, ý nghĩa quyết định trong việc xử lý các vụ án. Riêng về đội ngũ Hội thẩm nhân dân cần lựa chọn với tiêu chí am hiểu chuyên sâu về pháp luật, có uy tín cao trong cộng đồng dân cư, tránh tình trạng lựa chọn Hội thẩm mang tính chủ quan, duy ý chí dẫn đến chất lượng không cao, đôi lúc chỉ mang tính hình thức trong các phiên toà – “là cánh tay đắc lực của thẩm phán”. Nhà nước tuy cần có sự đổi mới về tiêu chí lựa chọn các chức danh tư pháp, đặc biệt là tiêu chuẩn hóa về bổ nhiệm Thẩm phán, tuân thủ Luật tổ chức Tòa án nhân dân và Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2014.

Thứ ba, quan tâm đúng mức công tác đánh giá năng lực của cán bộ tư pháp,

đặc biệt là cán bộ Thẩm phán, nghề quyết định các vấn đề liên quan đến con người, sinh mệnh chính trị của con người. Giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp nói chung, đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán nói riêng cần đặc biệt quan tâm, thể hiện qua việc lựa chọn một cách chặt chẽ, khách quan và có khoa học để bảo đảm chất lượng, xây dựng chương trình đào tạo bài bản, khoa học về kỹ năng hành nghề, được kiểm tra đánh giá, sát hạch bằng đội ngũ chuyên gia khoa học pháp lý đầu ngành, có đủ khả năng nhận định một cách khách quan, chính xác để đáp ứng yêu cầu trong tình hình hiện nay và trong tương lai về hoạt động điều tra, truy tố và xét xử.

Thứ tư, tăng cường công tác xây dựng ngành, bảo đảm đội ngũ cán bộ, công chức tư pháp, đặc biệt là trong cơ quan Tòa án trong sạch, vững mạnh, có ý thức tổ chức kỷ luật, có phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng; có lộ trình từng bước đảm bảo đủ về số lượng cán bộ, chú trọng những địa phương ở vùng sâu, vùng xa. Cần đổi mới cơ chế tuyển chọn, giới thiệu người để bổ nhiệm Thẩm phán theo hướng mở rộng nguồn bổ nhiệm; khắc phục việc chậm trễ trong việc bổ nhiệm lại; quy định chặt chẽ về tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán khi đánh giá, kiểm điểm, xem xét bổ nhiệm lại Thẩm phán.

Thứ năm, triển khai công tác quy hoạch và luân chuyển, biệt phái, điều động cán bộ, bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ Tòa án và Hội thẩm nhân dân. Thực hiện Kết luận số 116-TB/TW ngày 27/12/2012 của Bộ Chính trị về việc đào tạo cán bộ của ngành Tòa án nhân dân và ngành Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao đã triển khai xây dựng Chiến lược đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân đến năm 2020, Đề án về đào tạo chuyên gia đầu ngành về pháp luật và nghiệp vụ Tòa án, Đề án phối hợp với các trung tâm đào tạo để xây dựng cơ chế đào tạo nguồn cán bộ cho các Tòa án vùng sâu, vùng xa; v.v... [63, tr. 24].

Thứ sáu, tổ chức kiểm tra thường xuyên việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức; phối hợp chặt chẽ với cấp ủy Đảng địa phương trong công tác quản lý cán bộ; khen thưởng kịp thời, xứng đáng các tập thể, cá nhân có nhiều

thành tích trong công tác; xử lý kịp thời, nghiêm minh các trường hợp có vi phạm, đặc biệt là các hành vi lợi dụng nghề nghiệp, chức vụ, quyền hạn để tham nhũng, lãng phí, nhận hối lộ và những biểu hiện tiêu cực khác.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.

Thứ bảy, nâng cao công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” với phương châm “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân” gắn với cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn ngành Tòa án nhân dân. Triển khai quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc “Quy tắc ứng xử của cán bộ công chức ngành Tòa án nhân dân”; tăng cường kỷ luật công vụ, gắn trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị với việc để cán bộ, công chức trong cơ quan, đơn vị mình có hành vi vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật. Đổi mới, tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, giám đốc việc xét xử, kịp thời phát hiện, uốn nắn, rút kinh nghiệm những sai sót về nghiệp vụ trong quá trình giải quyết, xét xử các vụ án; tăng cường công tác xét xử lưu động đối với các vụ án hình sự, hạn chế tới mức thấp nhất việc trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung không đúng quy định của pháp luật; v.v...

3.3.2. Giải pháp giám đốc xét xử, xây dựng án lệ

Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Đà Nẵng) - 13

Trong những năm qua công tác kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Thực tiễn cho thấy, số lượng các vụ án mà Tòa án thụ lý, xét xử ngày càng nhiều, nhưng số các vụ án bị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm ngày càng giảm và chiếm một tỷ lệ rất thấp. Một trong những nguyên nhân của hạn chế này là do quy định của pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm chưa đầy đủ, rõ ràng, một số quy định không còn phù hợp với định hướng cải cách tư pháp. Trong đề tài nghiên cứu này chúng tôi đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm là yêu cầu cấp bách trong tình hình hiện nay, nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong việc khắc phục, sửa chữa những sai lầm, vi phạm pháp luật trong các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, đặc biệt có liên quan đến tội giết người.

Đổi mới , tăng cường hơn nữa công tác giám đốc kiểm tra đối với Tò a án

nhân dân cấp tỉnh , kịp thời phát hiện , khắc phuc ngay những sai sót về nghiệp vụ

trong quá trình giải quyết, xét xử các vụ án. Kịp thời kháng nghị và xét xử giám đốc thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng có những sai lầm nghiêm trọng. Nâng cao hiệu quả giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của đương sự theo quy định của pháp luật, không để đơn thư tồn đọng kéo dài.

Chú trọng chất lượng giải quyết vụ án, hạn chế tối đa những vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng. Từ đó, hạn chế dần việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị đã xác định một trong những nhiệm vụ của công cuộc cải cách tư pháp là: “Từng bước hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy định chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của người ra kháng nghị đối với bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; khắc phục tình trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ”; Kết luận số 79-KL/TW ngày 28-7-2010 của Bộ Chính trị về phương hướng đổi mới tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử với 04 cấp là: Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực, Tòa án nhân dân tỉnh, Tòa án nhân dân cấp cao và Toà án nhân dân tối cao. Theo đó, Tòa án cấp tỉnh sẽ không làm công tác giám đốc thẩm mà tập trung vào Toà án nhân dân cấp cao và Toà án nhân dân tối cao.

Đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, trong đó cụ thể hóa quy định của Hiến pháp được Quốc hội thông qua ngày 28-11-2013 và phù hợp với Luật tổ chức Toà án nhân dân sửa đổi, Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân sửa đổi. Đảm bảo thực hiện các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Tố tụng hình sự, như nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án.

Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao là cơ quan có thẩm quyền xét xử cao nhất chỉ tập trung thực hiện chức năng sửa sai cho các tòa dưới là chủ yếu,

trong khi hoạt động giải thích pháp luật tạo ra án lệ tạo điều kiện cho việc áp dụng pháp luật thống nhất vẫn chưa chú trọng đúng mức. Theo người viết, để tiến tới sử dụng án lệ ở Việt Nam thì cần thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, cần nâng cao chất lượng quan điểm pháp lý của các thẩm phán. Muốn như vậy việc xây dựng và sử dụng án lệ luôn đặt vai trò của thẩm phán lên hàng đầu vì họ là người trực tiếp xây dựng và sử dụng án lệ. Cần phải mở rộng nguồn tài liệu là cơ sở đưa ra các lập luận hay lý lẽ thể hiện các quyết định, bản án của toà án. Cần sử dụng bất cứ nguồn gì để có thể thuyết phục rằng quan điểm pháp lý của các thẩm phán là hợp lý. Vì vậy, nên cải cách phần "xét thấy” trong quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao về nội dung lẫn hình thức. Các thẩm phán có thể dẫn chiếu hoặc trích dân nhiều nguồn khác nhau và ghi vào trong các quyết định của toà án. Những lập luận của các thẩm phán cần phải được đưa ra cộng đồng pháp lý cũng như thực tiễn pháp lý để kiểm nghiệm và bổ sung. Cần phải nhìn nhận các quan điểm pháp lý tồn tại trong án lệ dưới góc độ "mở” và trong tương quan với điều kiện kinh tế - xã hội luôn vận động. Điều này có nghĩa rằng các quan điểm pháp lý của các án lệ thường xuyên phải được kiểm nghiệm bổ sung và loại bỏ, dĩ nhiên nó cũng cần có tính ổn định tương đối của riêng nó. Ở Việt Nam hiện nay, vẫn chưa kết nối tốt được giữa hoạt động thực tiễn pháp lý và hoạt động khoa học pháp lý, các thẩm phán vẫn còn ít tham gia vào các hoạt động khoa học, công việc khoa học pháp lý vẫn thuần túy dành cho các nhà khoa học. Vì vậy, trong điều kiện hiện nay việc khuyến khích và tạo điều kiện cho hoạt động sưu tầm và bình luận án đối với các nhà khoa học pháp lý, các luật sư và đặc biệt là các thẩm phán là một việc làm cần thiết và quan trọng để nâng cao chất lượng của nguồn luật án lệ.

Thứ hai, để tiến tới công nhận và sử dụng án lệ có hiệu quả thì việc công bố bản án là việc làm không thể không nhắc đến. Công bố bản án sẽ góp phần bảo đảm tính minh bạch của pháp luật và có ý nghĩa quan trọng cho cả các thẩm phán lẫn người dân. Khi có các tập bản án sẽ tạo điều kiện cho các thẩm phán áp dụng pháp luật thống nhất, còn người dân có thể hiểu biết các quy định của pháp luật rõ

ràng hơn và góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật. Tuy nhiên, để có thể phát huy được vai trò và phát huy hiệu quả của án lệ thì cần phải chọn lọc lại các quyết định giám đốc thẩm trước khi phát hành, chỉ các quyết định liên quan đến vấn đề pháp lý, không nên đăng tải các quyết định liên quan đến vấn đề sự kiện. Trong thời gian qua, mặc dù Tòa án Tối cao cho phát hành các tập quyết định giám đốc thẩm nhưng trong đó không phải phán quyết nào cũng có thể được coi là án lệ. Bởi vì án lệ chỉ được hình thành khi có một quan điểm pháp lý mới đối với vấn đề mà nguồn văn bản quy phạm chưa quy định hoặc quy định chưa rõ ràng.

3.3.3. Giải pháp nâng cao năng lực người tiến hành tố tụng và luật sư tại phiên tòa

Trong quá trình xét xử về tội giết người trên địa bàn, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã cơ bản xét xử đảm bảo đúng người, đúng tội, không để xảy ra trường hợp kết án oan người không có tội hoặc bỏ lọt tội phạm. Tuy nhiên trong thời gian qua vẫn còn một số ít bản án, quyết định bị hủy do lỗi chủ quan của Thẩm phán. Nguyên nhân là do: Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực xét xử, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật của một số ít cán bộ, Thẩm phán, Thư ký còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình hiện nay.

Khi tham gia bào chữa vụ án hình sự về tội giết người, một số Luật sư chưa đầu tư thoả đáng đến công việc chuyên môn, tới việc làm rõ các tình tiết buộc tội, tình tiết gỡ tội của vụ án, đánh giá chứng cứ một cách phiến diện, đặc biệt còn làm lộ lọt bí mật điều tra với mục đích chạy tội cho bị can, bị cáo. Thậm chí có những luật sư tìm cách móc nối với những người tiến hành tố tụng để “chạy án” nhằm gỡ tội cho thân chủ ảnh hưởng đến vai trò chức năng của đội ngũ luật sư, giảm lòng tin của nhân dân, của hội đồng xét xử đối với hoạt động bào chữa tại phiên toà.

Ngoài ra trong thời gian tới ngành tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới cần thực hiện tốt các nội dung:

Một là: Thẩm phán, Kiểm sát viên phải nhận thức đúng đắn rằng, hồ sơ vụ án chỉ là tài liệu do Cơ quan điều tra thu thập, có thể mang tính chủ quan, duy ý chí. Phải đề cao nguyên tắc “bản án chỉ căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại

phiên tòa”, thực hiện đúng tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết số 08/NQ-TW việc giải quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, tòa diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để đưa ra những bản án, quyết định đúng pháp luật có sức thuyết phục.

Hai là, Kiểm sát viên phải xác định đúng vị trí vai trò, trách nhiệm của mình tại phiên tòa hình sự “chứng minh tội phạm là nghĩa vụ của Viện kiểm sát”. Viện kiểm sát đã thực hiện việc truy tố bị cáo ra Tòa thì đương nhiên phải có nghĩa vụ chứng minh cho quyết định buộc tội của mình.

Ba là, Bị cáo, các đương sự và người bào chữa cho bị cáo, bảo vệ quyền lợi cho đương sự phải chủ động và tích cực đưa ra những chứng cứ, lập luận trên cơ sở pháp luật để tranh luận với Kiểm sát viên cũng như giữa các đương sự trong vụ án, tạo điều kiện cho bị cáo tranh luận với Kiểm sát viên tại phiên tòa.

Bốn là, trình tự, thủ tục phiên tòa phải tuân thủ quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự để không bỏ sót quy trình và đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia tranh tụng, cần phải có cơ chế giám sát tính khách quan, minh bạch của biên bản phiên tòa.

Năm là, trong các vụ án giết người có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, Hội đồng xét xử phải có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng, phải xây dựng kế hoạch cụ thể suốt quá trình nghiên cứu, đánh giá chứng cứ của vụ án. Bên cạnh đó, phải thường xuyên trao đổi những nhận định, đánh giá về chứng cứ cụ thể của vụ án giữa các thành viên trong Hội đồng xét xử, tránh việc đánh giá chứng cứ không thống nhất, việc đùn đẩy trách nhiệm dẫn đến hiệu quả xét xử các vụ án không cao.

3.3.4. Tăng cường công tác phối hợp, xử lý nghiêm minh khi xét xử và trong việc áp dụng đúng các tình tiết liên quan đến việc định tội danh và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Trước hết, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật, mà đặc biệt là các cơ quan - Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội giết người nói riêng trên địa bàn

cả nước nói chung, thành phố Đà Nẵng nói riêng. Nghị quyết 09/1998/NQ-CP ngày 13/7/1998 của Chính phủ ở điểm 12 có đoạn ghi như sau: “Đề nghị Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao có kế hoạch phối hợp chặt chẽ với các cơ quan bảo vệ pháp luật của Chính phủ đẩy mạnh công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm một cách kịp thời và nghiêm minh. Ngoài ra, Nghị quyết số 08/NQ- TW ngày 02/01/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Quyết định số 138/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ “Về phê duyệt Chương trình quốc gia về phòng, chống tội phạm”; Quyết định số 632/QĐ-TTg ngày 14/4/2016 của Thủ tướng chính phủ “Phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 - 2025 và định hướng đến năm 2030” v.v... cũng đã đề cập cụ thể vấn đề này. Vì vậy, áp dụng tinh thần của Nghị quyết đó vào địa bàn các cấp cũng vậy, đòi hỏi chúng ta cần thực hiện một số yêu cầu sau:

Một là, các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án trong địa bàn thành phố cần nhận thức rõ việc phối hợp phải làm theo chức năng, nhiệm vụ của ngành được Nhà nước giao phó, sự phối hợp không mang tính chất hỗ trợ đơn thuần mà là sự cộng đồng trách nhiệm trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Hai là, các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án chỉ được phối hợp trong phạm vi trách nhiệm và tạo ra sự chế ước trong môi trường và điều kiện cụ thể, tránh tư tưởng thỏa hiệp, bằng lòng, đùn đẩy trách nhiệm. Tất cả các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án đều phải ý thức đầy đủ rằng: Xét xử oan là một sai lầm lớn thì bỏ lọt tội cũng là sai lầm không nhỏ, do đó, sự phối hợp đó phải đòi hỏi đi đôi với đấu tranh để bảo vệ pháp chế, trật tự pháp luật.

Song song với việc phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án, thì yêu cầu xử lý nghiêm minh và đúng pháp luật là nhiệm vụ quan trọng và là yêu cầu thống nhất trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Vì vậy, đòi hỏi một đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán có “tâm”, đủ sức khỏe và có “tầm” để làm nhiệm vụ. Cho nên, trước hết phải có chính sách và lương bổng hợp lý của nghề đặc biệt này, hình thức và nội dung tuyển chọn về khả năng lành nghề, hiểu được một

Xem tất cả 124 trang.

Ngày đăng: 20/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí