Những Đặc Thù Cơ Bản Trong Việc Dạy Nghề Đối Với Người Khuyết Tật

Đặc biệt đối với NKT thì việc dạy nghề cho những đối tượng này càng có ý nghĩa quan trọng. Dạy nghề không chỉ giúp cho NKT lĩnh hội kiến thức nghề nghiệp để tìm kiếm việc làm, tham gia vào quan hệ lao động mà còn giúp họ hoà nhập vào cộng đồng, tự vươn lên trong cuộc sống. NKT cũng có thể tham gia học nghề để tự tạo việc làm hoặc tìm kiếm việc làm và vì vậy dạy nghề đối với NKT cũng sẽ là một vấn đề tất yếu.

Theo quy định của pháp luật hiện hành về NKT, có thể hiểu dạy nghề cho NKT như sau: “Dạy nghề cho NKT được hiểu là quá trình trang bị kiến thức kĩ năng, thái độ nghề nghiệp cần thiết cho NKT để họ có thể tự tạo việc làm hoặc tìm kiếm việc làm thông qua việc tham gia vào quan hệ lao động” [50].

1.2.2. Những đặc thù cơ bản trong việc dạy nghề đối với người khuyết tật

Thứ nhất, dạy nghề cho NKT phải gắn liền với tạo việc làm, chỉ nên dạy những nghề mà họ có thể tự tạo việc làm hoặc dạy nghề theo địa chỉ của các cơ sở sản xuất kinh doanh.

Thứ hai, người khuyết tật là đối tượng đặc thù, tuy số lượng lớn nhưng có nhiều dạng khuyết tật và cư trú rải rác rộng khắp trên cả nước. Do đó mỗi dạng tật chỉ phù hợp với một số nghề nhất định nên dạy nghề cho NKT gặp nhiều khó khăn và chi phí cao hơn so với dạy nghề thông thường.

Thứ ba, do đại bộ phận người khuyết tật có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, trình độ văn hoá thấp nên dù có chính sách hỗ trợ dạy nghề nhưng đa số người khuyết tật không tự đảm bảo các chi phí phục vụ cho việc học nghề, đào tạo nghề.

Thứ tư, học tập là một trong các quyền và nghĩa vụ của công dân nhưng vì bị khiếm khuyết nên việc học tập của họ khó khăn hơn so với những người bình thường. Do đặc thù của từng dạng tật, mức độ khiếm khuyết nên nhu cầu và khả năng học tập của mỗi NKT cũng rất khác nhau. Vì thế, Nhà nước cần tạo điều kiện để người khuyết tật được học tập phù hợp với nhu cầu và khả năng của mình.

Thứ năm, dạy nghề cho NKT cần áp dụng những phương thức giáo dục đặc thù. Xuất phát từ tính đa dạng của các dạng tật của người khuyết tật, dạy nghề cho NKT cần phải xác định các phương thức phù hợp đối với từng đối tượng. Việc xác định phương thức giáo dục phù hợp cho NKT giúp cho việc học tập của họ đạt hiệu quả cao hơn.

Thứ sáu, một trong những phương pháp có ý nghĩa quan trọng trong công tác dạy nghề cho NKT là phương pháp tâm lý sư phạm. NKT thường mang tâm lý mặc cảm và có xu hướng xa lánh khi thực hiện các hoạt động mang tính cộng đồng. Xuất phát từ đặc điểm tâm lý đó, giáo dục nói chung và công tác dạy nghề cho NKT nói riêng chỉ có thể thực hiện một cách có hiệu quả khi trước hết phải dựa trên những đặc điểm tâm lý của NKT. Dựa vào tâm lý học, các giáo viên dạy nghề xây dựng chương trình, nội dung, phương pháp dạy học phù hợp cho từng đối tượng cụ thể (theo từng đối tượng dạng tật, mức độ khuyết tật) trên các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau. Hiểu rõ những đặc điểm tâm lý đặc trưng của NKT, từ đó mới có thể xác định mục tiêu, lựa chọn nội dung, phương pháp, phương tiện cũng như hình thức tổ chức đào tạo, dạy nghề phù hợp cho NKT. Qua đó góp phần thúc đẩy họ vượt qua trở ngại của bản thân và vươn lên tự khẳng định mình trong cuộc sống.

Thứ bảy, do mất hoặc giảm khả năng hoạt động một trong các cơ quan tiếp nhận thông tin cần thiết cho hoạt động nhận thức nên hoạt động tư duy của một bộ phận NKT (dạng tật giác quan, tật thần kinh) bị giảm sút về tốc độ do khối tượng thông tin cần tiếp thu bị hạn chế. Vì vậy, trong hoạt động dạy nghề cần cung cấp thông tin qua nhiều kênh, nhiều nguồn bằng nhiều biện pháp để tăng cường lượng thông tin cho hoạt động nhận thức của đối tượng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 122 trang tài liệu này.

1.2.3. Lý luận pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật

NKT trước hết là một con người, nhưng họ có khiếm khuyết so với những người bình thường. Do đó, luật người khuyết tật nói chung, pháp luật

Pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật ở Việt Nam - 5

dạy nghề cho người khuyết tật nói riêng, vừa phải đảm bảo cái chung đồng thời chứa đựng cái riêng. Dù chỉ là một nhóm thiểu số trong xã hội nhưng NKT là một bộ phận dân cư cấu thành nên cộng đồng xã hội. Đến nay, tuy chưa có một văn bản cụ thể nào về dạy nghề cho NKT, các quy phạm pháp luật về dạy nghề cho người khuyết tật chỉ nằm rải rác ở nhiều loại văn bản pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau (lao động, dạy nghề, Luật bảo hiểm xã hội, luật thuê thu nhập doanh nghiệp…) song các quy định về dạy nghề cho NKT đã thể hiện đúng tinh thần của pháp luật của NKT nói riêng, hệ thống pháp luật nói chung, đó là đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật dưới góc độ quyền con người. Tương ứng với các quyền của từng cá nhân, nhà nước có trách nhiệm bảo vệ, tôn trọng và thực thi các quyền con người. Hơn nữa, người khuyết tật là một chủ thể có tính chất đặc biệt nên việc tiếp cận nội dung pháp lý liên quan đến người khuyết tật cần được giải quyết hài hòa trong mối tương quan về quyền và nghĩa vụ của họ.

Trong phạm vi nghiên cứu lý luận pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật, chúng ta đi sâu làm rõ quan hệ dạy nghề: Cũng như bất cứ con người nào, để người khuyết tật có thể tồn tại với những giá trị nhân phẩm được tôn trọng thì họ cần được học tập, rèn luyện để có một công việc ổn định, chất lượng. Đây cũng là quyền hiến định của họ như mọi công dân trong xã hội. Tuy nhiên, với những đặc thù riêng có của người khuyết tật thì các vấn đề liên quan đến dạy nghề cho họ cần phải có những quy định phù hợp với người khuyết tật nói chung và từng dạng tật nói riêng. Nội dung điều chỉnh pháp luật về vấn đề này không phải chỉ là sự ưu tiên, ưu đãi mà điều quan trọng là tạo ra và thúc đẩy các cơ hội bình đẳng cho người khuyết tật về dạy nghề. Trong quan hệ dạy nghề, quyền và trách nhiệm của các chủ thể liên quan được xác định.

Bên cạnh khía cạnh trách nhiệm xã hội mà người ta thường nói đến khi

đề cập đến người khuyết tật thì không thể thiếu yêu cầu trách nhiệm mang nội dung pháp lý. Bởi vì quyền và nghĩa vụ của NKT trong lĩnh vực dạy nghề chỉ được hiện thực hóa khi trách nhiệm của các chủ thể liên quan: Nhà nước, cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân… với người khuyết tật được đảm bảo thực hiện. Hơn nữa, chính người khuyết tật và các tổ chức của họ phải ý thức được trách nhiệm của mình với vấn đề khuyết tật trong mối quan hệ với các quyền con người nói chung và quyền công dân nói riêng. Các quan hệ chủ yếu liên quan đến trách nhiệm đối với người khuyết tật bao gồm: Trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan Nhà nước đối với người khuyết tật; Trách nhiệm của gia đình đối với người khuyết tật; Trách nhiệm của tổ chức và cá nhân đối với người khuyết tật.

Đối với quan hệ về các biện pháp đảm bảo quyền của người khuyết tật trong lĩnh vực dạy nghề: Các cam kết, mong muốn, quy định nhằm tạo ra sự bình đẳng và cơ hội tiếp cận cho người khuyết tật chỉ có ý nghĩa khi được bảo đảm bằng các biện pháp khác nhau. Điều đó dẫn đến nhu cầu làm phát sinh quan hệ về các biện pháp đảm bảo quyền được dạy nghề của người khuyết tật. Do các vấn đề liên quan đến người khuyết tật có phạm vi rộng liên quan đến nhiều lĩnh vực, nên các biện pháp đảm bảo quyền của người khuyết tật trong lĩnh vực này cũng rất đa dạng, bao gồm các biện pháp như biện pháp xã hội; biện pháp kinh tế, biện pháp pháp lý. Vì vậy, có thể được hiểu pháp luật về dạy nghề đối với NKT là tổng hợp các quy định về quyền và nghĩa vụ của NKT, cơ sở dạy nghề và các chủ thể khác có liên quan đến quan hệ dạy nghề trong quá trình trang bị kiến thức kỹ năng, thái độ nghề nghiệp cần thiết cho NKT nhằm giúp NKT có thể tự tạo việc làm hoặc tìm kiếm việc làm thông qua việc tham gia vào quan hệ lao động, giúp NKT vươn lên hòa nhập cộng đồng.

Từ những phân tích như trên, tác giả cho rằng: Pháp luật về dạy nghề đối với NKT là lĩnh vực pháp luật mang tính chất liên ngành bao gồm hệ thống các quy tắc xử sự, do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh

các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực dạy nghề nhằm xác định, tổ chức, thực hiện và đảm bảo các quyền và trách nhiệm của người khuyết tật nhằm giúp họ có thể tự tạo việc làm hoặc tìm kiếm việc làm thông qua việc tham gia vào quan hệ dạy nghề.

1.3. Tính cần thiết và vai trò của pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật ở Việt Nam

1.3.1. Tính cần thiết của pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật ở Việt Nam

- Xuất phát từ vị trí, vai trò của người khuyết tật trong xã hội

Trước hết, cần nhận thức rằng NKT là một bộ phận không tách rời của toàn thể xã hội, cộng đồng. Phần lớn những khuyết tật gây ra không phải do lỗi của bản thân NKT. Đồng thời, những đóng góp hiện đã là những người gặp rủi ro, bất hạnh. Ngoài ra, không ít NKT bị khuyết tật do chính những hy sinh cống hiến của họ đối với đất nước, ví dụ như NKT có công với cách tại và tiềm năng có giá trị mà NKT cống hiến cho sự thịnh vượng và đa dạng của cộng đồng là những thành quả đáng được ghi nhận. Những khó khăn và những rào cản trong cuộc sống không làm họ nản chí mà lại thôi thúc họ quyết tâm hơn vượt qua hoàn cảnh để tham gia vào các hoạt động kinh tế, xã hội, trước hết là để nuôi sống bản thân, đóng góp vào thu nhập của gia đình và sâu xa hơn là đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội.

- Xuất phát từ nhu cầu đảm bảo đời sống cho người khuyết tật

Dạy nghề không chỉ là vấn đề riêng của NKT mà nó còn là vấn đề chung của toàn xã hội. Quan điểm nhìn nhận là nếu NKT được trang bị kiến thức kĩ năng, thái độ nghề nghiệp thì cơ hội có công ăn việc làm ổn định cao hơn, điều đó không chỉ có ý nghĩa về đời sống vật chất và tinh thần của họ, mà còn góp phần giảm bớt gánh nặng cho xã hội. Được học nghề mong muốn của rất nhiều NKT, với mục đích nhằm nâng cao khả năng hoà nhập cộng

đồng NKT và giảm thiểu gánh nặng cho gia đình họ. Nếu được dạy nghề một cách chất lượng và có các dịch vụ bố trí dạy nghề, việc làm hiệu quả, nhiều NKT không chỉ có thể tự nuôi sống bản thân mà còn có thể hỗ trợ gia đình và đóng góp cho xã hội. Bởi lao động là chức năng cơ bản của con người, đó chính là công việc xây dựng nên lòng tự hào và nhân phẩm cho NKT cũng như những người khác.

Kể từ khi Pháp lệnh người tàn tật năm 1998 ra đời, hệ thống văn bản về trợ giúp NTT nói chung và về dạy nghề cho NTT nói riêng do các cơ quan từ trung ương đến địa phương ban hành tương đối đầy đủ. Để thể chế hóa hầu như các quan hệ chính trị, tư pháp, kinh tế, văn hóa, xã hội có liên quan đến NKT vào hệ thống luật và các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật. Điều này đã tạo môi trường pháp lý thuận lợi để NKT hòa nhập cộng đồng và các cơ quan, tổ chức triển khai thực hiện tốt các chính sách, chế độ trợ giúp NKT. Tuy nhiên, sau hơn 10 năm thực hiện Pháp lệnh vẫn còn nhiều cơ chế, chính sách chưa thật sự đi vào cuộc sống hoặc chưa được thực hiện đầy đủ như: các doanh nghiệp chưa nhận đủ số lao động là NTT theo quy định; quỹ việc làm cho NTT, quỹ hỗ trợ NTT chưa được các địa phương quan tâm thành lập; nguồn lực chưa được đảm bảo đầy đủ, công tác tuyên truyền phổ biến chính sách, giám sát thực thi pháp luật... còn nhiều hạn chế, khiến hiệu quả thực hiện luật, pháp lệnh và các chính sách đối với NKT chưa cao, còn một số chính sách không khả thi trong cuộc sống.

Để đảm bảo tính hệ thống của chính sách pháp luật về dạy nghề đối với NKT, bảo đảm sự phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và phù hợp với quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, thì sau hơn 10 năm thực hiện, Pháp lệnh về người tàn tật cần được tổng kết đánh giá, hoàn thiện nâng lên thành luật, tạo thành một hệ thống chính sách pháp luật bảo đảm sự tham gia bình đẳng của NKT. Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII đã thông qua Luật người khuyết tật vào ngày 17/6/2010, góp phần hoàn thiện hơn nữa hệ thống chính sách dành cho NKT. Đồng thời tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc giải quyết có hiệu quả vấn đề dạy nghề đối với NKT.

- Đáp ứng yêu cầu thực hiện Công ước quốc tế liên quan đến người khuyết tật mà Việt Nam là thành viên và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế trong các lĩnh vực liên quan đến người khuyết tật.

Ngày 13/12/2006, Liên hợp quốc đã thông qua Công ước về Quyền của người khuyết tật. Đến nay đã có 147 quốc gia ký tham gia, trong đó 97 quốc gia đã phê chuẩn. Việt Nam cũng đã ký tham gia công ước vào ngày 22/10/2007 và đang trong quá trình nghiên cứu để trình các cấp có thẩm quyền phê chuẩn. Trong khu vực, Việt Nam cam kết thực hiện 7 lĩnh vực ưu tiên trong Khuôn khổ hành động thiên niên kỷ Biwako hướng tới một xã hội hoà nhập, không vật cản vì quyền của NKT, khu vực châu Á - Thái Bình Dương thập kỷ thứ II về NKT (1993 - 2002). Việc gia nhập Công ước này cũng như các công ước và khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế, các chương trình hành động của khu vực đặt ra yêu cầu nội luật hoá, hay nói cách khác là phải xây dựng, sửa đổi, bổ sung pháp luật trong nước cho phù hợp với pháp luật và tình hình quốc tế về NKT nói chung và dạy nghề đối với NKT nói riêng.

Dạy nghề nói chung và dạy nghề cho NKT nói riêng là vấn đề được đặt ra ở nhiều quốc gia, kể cả các nước phát triển và đang phát triển. Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với một bộ phận dân cư là NKT mà quan trọng hơn, nó tác động đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, ổn định xã hội của quốc gia đó. Dạy nghề không chỉ là vấn đề lớn của NKT mà nó còn là vấn đề chung của toàn xã hội. Nhưng đối với NKT thì dạy nghề cần được đặt ra cấp thiết hơn. Quan điểm nhìn nhận là nếu NKT được trang bị kiến thức kĩ năng, thái độ nghề nghiệp thì cơ hội có công ăn việc làm ổn định cao hơn, điều đó không

chỉ có ý nghĩa về đời sống vật chất và tinh thần của họ, mà còn góp phần giảm bớt gánh nặng cho xã hội.

- Cần thiết phải thiết lập cơ chế pháp lý hữu hiệu để bảo vệ quyền của người khuyết tật, nhất là trong lĩnh vực lao động việc làm

Hiện nay, cơ chế này ở Việt Nam chưa phát huy hiệu quả, tính ràng buộc chưa cao, chủ yếu mang tính khuyến khích, đề xuất hỗ trợ mà chưa thiết lập được cơ chế riêng biệt nâng cao trách nhiệm của nhà nước và xã hội trong việc tạo ra cơ hội có được công việc phù hợp đối với người khuyết tật - nhóm người yếu thế trong xã hội. Chưa có một văn bản riêng ở tầm văn bản luật điều chỉnh quan hệ hết sức quan trọng này. Có văn bản luật điều chỉnh về dạy nghề đối với người khuyết tật là hết sức cần thiết và đáp ứng nhu cầu của xã hội khi Việt Nam số lượng người khuyết tật, do các nguyên nhân khác nhau (chủ yếu là hậu quả của chiến tranh) là vô cùng lớn.

1.3.2. Vai trò của pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật

- Pháp luật về dạy nghề cho người khuyết tật tạo hành lang pháp lý cho việc thiết lập hệ thống cơ chế, chính sách cụ thể hóa quy định quốc tế về quyền của người khuyết tật trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Hội nhập quốc tế không thể không hội nhập trên phương diện pháp lý. Việt Nam đã coi việc tổ chức triển khai những quy định của Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật là nghĩa vụ của nhà nước. Trong số các quyền quan trọng của người khuyết tật, thì quyền được lao động là quyền rất quan trọng. Quyền của người khuyết tật trong lĩnh vực này đồng nghĩa với nghĩa vụ của nhà nước với tư cách là chủ thể của luật pháp quốc tế, đồng thời với tư cách như là một thiết chế được người dân tạo lập nên để bảo vệ quyền của họ. Việc tổ chức đảm bảo thực thi các quyền của người khuyết tật theo

Công ước quốc tế chỉ thực sự hiệu quả khi có một hệ thống những quy định tiến bộ, phù hợp, rõ ràng và qua đó tạo lập cơ chế pháp lý có tính chất ràng

Xem tất cả 122 trang.

Ngày đăng: 21/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí