DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Tên biểu đồ | Trang | |
Biểu đồ 2.1. | Số người khuyết tật được dạy nghề giai đoạn 2006 – 2010 (người) | 69 |
Biểu đồ 2.2. | Về trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật của người khuyết tật Việt Nam năm 2008 | 73 |
Biểu đồ 2.3. | Tình hình học nghề của người khuyết tật tại các cơ sở | 74 |
Có thể bạn quan tâm!
- Pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật ở Việt Nam - 1
- Những Vấn Đề Lý Luận Cơ Bản Về Người Khuyết Tật Và Quyền Của Người Khuyết Tật
- Những Vấn Đề Lý Luận Về Pháp Luật Về Dạy Nghề Đối Với Người Khuyết Tật
- Những Đặc Thù Cơ Bản Trong Việc Dạy Nghề Đối Với Người Khuyết Tật
Xem toàn bộ 122 trang tài liệu này.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc một hay nhiều chức năng nào đó của bộ phận cơ thể bị suy giảm. Do khuyết tật nên họ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt, học tập, lao động và tham gia hoạt động xã hội. Việc đảm bảo sự bình đẳng cho NKT thực hiện các quyền và nghĩa vụ về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội là cần thiết và là trách nhiệm của Nhà nước và của toàn xã hội.
Dạy nghề là một nội dung quan trọng trong việc bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xã hội nói chung và cũng bảo đảm yêu cầu giải quyết việc làm cho lao động nói riêng. Đặc biệt đối với NKT, dạy nghề có ý nghĩa tiền đề trong việc tạo cơ hội việc làm, góp phần hỗ trợ NKT từng bước hoà nhập cộng đồng. Với một đối tượng đặc thù như NKT thì dạy nghề không chỉ tạo điều kiện cho họ vượt qua những khó khăn, hòa nhập vào đời sống cộng đồng mà còn là hoạt động mang ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội và nhân văn sâu sắc.
Là mắt xích quan trọng trong chính sách an sinh xã hội, với truyền thống nhân đạo của dân tộc, người khuyết tật luôn nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta. Ngay từ Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (tháng 6-1991) đã khẳng đinh: "Chính sách xã hội bảo đảm và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh…Chăm lo đời sống những người già neo đơn, tàn tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi" [19]. Đến Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI chỉ rõ:
Từng bước xây dựng chính sách bảo trợ xã hội đối với toàn dân, theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, mở rộng và phát triển sự nghiệp bảo trợ xã hội, tạo lập nhiều hệ thống và
hình thức bảo trợ xã hội cho những người có công với cách mạng và những người gặp khó khăn. Nghiên cứu bổ sung chính sách, chế độ bảo trợ xã hội phù hợp với quá trình đổi mới và cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội [18].
Thể chế hóa các quan điểm của Đảng, Hiến pháp và nhiều văn bản pháp luật đã được ban hành tạo hành lang và cơ sở pháp lý để NKT thực hiện những quyền cơ bản của con người, tham gia vào đời sống và sự phát triển của xã hội. Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1980, 1992 và lần sửa đổi gần đây nhất là Hiến pháp năm 2013 đều khẳng định NKT là công dân, thành viên của xã hội. Họ có quyền được xã hội trợ giúp để thực hiện được quyền bình đẳng và tham gia tích cực vào các hoạt động của xã hội, đồng thời được miễn trừ một số nghĩa vụ công dân. Đặc biệt, công tác dạy nghề và giải quyết việc làm cho NKT được quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi từ phát triển hạ tầng cơ sở cho đến các chính sách trợ giúp đối tượng tham gia học nghề. Bộ luật lao động 2012 ra đời, thay thế cho Bộ luật Lao động năm 1994 sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung qua các năm 2002, 2006 và 2007 cũng có những quy định riêng cho lao động là người khuyết tật. Những quy định về “Lao động là người khuyết tật” tại mục 4, Chương XI của Bộ luật lao động 2012 được đánh giá là sự kế thừa và phát triển các văn bản pháp luật trước đó trong lĩnh vực lao động.
Luật Dạy nghề năm 2006 đã dành toàn bộ Chương VII quy định dạy nghề cho NKT, với mục tiêu giúp đối tượng có năng lực thực hành nghề phù hợp với khả năng lao động của mình để tự tạo việc làm hoặc tìm được việc làm, ổn định đời sống. Đồng thời, khẳng định, hỗ trợ về tài chính và các chính sách ưu đãi khác đối với các cơ sở dạy nghề cho NKT nhằm khuyến khích công tác dạy nghề cho NKT.
Luật Người khuyết tật được Quốc hội khóa XII thông qua ngày 17/6/2010 có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo các quyền lợi chính đáng
của NKT, trong đó chế độ dạy nghề là chế độ pháp lý quan trọng đã được quy định tại Điều 32. Sau hơn 4 năm thực hiện, những quy định về dạy nghề đối với NKT đã phần nào đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn đất nước trong điều kiện đổi mới, góp phần không nhỏ trong việc giúp NKT nâng cao cơ hội việc làm, ổn định cuộc sống.
Tuy nhiên thực tiễn áp dụng pháp luật dạy nghề cũng cho thấy bên cạnh những kết quả đã đạt được vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Theo báo cáo của các địa phương trên cả nước giai đoạn 2006-2010, tổng số người khuyết tật được dạy nghề cả nước là gần 30.000 người, chỉ đạt hơn 37% so với mục tiêu đề ra theo Đề án trợ giúp người tàn tật của Chính phủ. Trong số đó chỉ có hơn một nửa được tạo việc làm. Hàng năm có khoảng 5.000 - 6.000 người khuyết tật được dạy nghề, chiếm 0.4% tổng số người được dạy nghề nói chung, trong khi đó tỷ lệ người khuyết tật chiếm tới 8% tổng dân số.
Do đó, nghiên cứu những quy định của pháp luật về dạy nghề đối với NKT, nhận xét đánh giá thực tiễn áp dụng, tìm ra nguyên nhân của những tồn tại để từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả trong việc dạy nghề đối với NKT, góp phần nâng cao tính hiệu quả trong chăm sóc, bảo vệ quyền của họ như là nhóm người dễ bị tổn thương trong bối cảnh và xu thế hiện nay ở nước ta là cần thiết. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả luận văn đã chọn đề tài nghiên cứu "Pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật ở Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Tôn trọng và bảo đảm quyền của người khuyết tật không chỉ là vấn đề mang tính xã hội mà còn có ý nghĩa về kinh tế và pháp lý cần được xã hội quan tâm. Đã có một số bài báo và một số công trình nghiên cứu về vấn đề này như:
- Luận văn thạc sỹ (1999), "Pháp luật về lao động tàn tật ở Việt Nam", Phạm Thị Thanh Việt.
- Luận văn thạc sỹ, "Dạy nghề và tạo việc làm cho NKT: Thực trạng và những vấn đề đặt ra"
- Luận án tiến sỹ, "Hoàn thiện pháp luật về quyền của NKT ở Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Thị Báo, đăng trên trang Thông tin khoa học và xã hội, số 8(320), 2009.
- Khóa luận tốt nghiệp (2000), “Chế độ lao động đối với người tàn tật” của Trần Thị Hoa.
- Khóa luận tốt nghiệp (2004), “Chế độ lao động đối với người tàn tật ở Việt Nam” của Nguyễn Thị Kim Oanh.
- Luận văn thạc sỹ (2010), “Pháp luật về lao động tàn tật ở Việt Nam”
của Phạm Thị Thanh Việt.
Ngoài ra, còn một số bài báo cũng đề cập đến lao động tàn tật như: “Tạo cơ hội cho người khuyết tật hòa nhiệp và tiếp cận đầy đủ trong quá trình phát triển” của TS Đàm Hữu Đắc đăng trên Tạp chí Lao động và Xã hội số 324/2007 hay “Để người khuyết tật Việt Nam có việc làm phù hợp và ổn định” của Nghiêm Xuân Tuệ đăng trên Tạp chí Lao động và Xã hội số 304,305/2007.
Thời gian gần đây, một số báo cáo nghiên cứu mới về NKT như: Hòa nhập người khuyết tật Việt Nam, đánh giá cuối kỳ 2010, do nhóm đánh giá Eva Lindskog, Trần Thị Thiệp, Hoàng Hải Yến thực hiện - thỏa thuận hợp tác giữa tổ chức CRS và USAID (xuất bản 12/2009); Việc làm của người khuyết tật, kinh nghiệm và bài học rút ra từ dự án "Phát huy năng lực của NKT tại thành phố Đà Nẵng thông qua các cơ hội và dịch vụ y tế", Nxb Lao động-xã hội, 2011; Quản lý giáo dục hòa nhập, do Trần Ngọc Giao, Lê Văn Tạc chủ biên, hiện nay giáo trình đã được vào giảng dạy cho sinh viên
Nhìn chung các nghiên cứu trên hoặc là đã được tiến hành trong điều
kiện thời gian khi chưa có những cập nhật của pháp luật về lao động, giáo dục nghề nghiệp, hoặc vấn đề về quyền lợi của người khuyết tật được nghiên cứu dưới góc độ tổng quan hay chỉ tiếp cận vấn đề từ khía cạnh xã hội mà chưa đi sâu vào khía cạnh pháp lý cũng như thực trạng thực hiện những quy định về dạy nghề đối với lao động là người khuyết tật. Riêng về khía cạnh dạy nghề cho người khuyết tật thì hầu như chưa có một công trình mới, cụ thể nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, trực tiếp. Bởi vậy, trong luận văn này, tôi xin mạnh dạn đưa ra những nghiên cứu và hiểu biết của mình về những vấn đề xoay quanh các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn đối với vấn đề dạy nghề cho người khuyết tật ở Việt Nam. Nhất là với thực tiễn pháp lý về dạy nghề đối với NKT hiện hành, các quy định chỉ mang tính chung chung và nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác thì việc tìm hiểu pháp luật dạy nghề cho người khuyết tật dưới giác độ nghiên cứu của một luận văn thạc sỹ là hết sức cần thiết.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu của luận văn nhằm mục đích làm sáng tỏ hệ thống lý luận pháp luật về dạy nghề cho NKT hiện nay, đồng thời, phân tích thực trạng pháp luật liên quan đến vấn đề dạy nghề cho NKT ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định, chính sách pháp luật, cũng như việc tổ chức thực hiện trong thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả trong việc dạy nghề đối với NKT ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định liên quan đến pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật và thực trạng của vấn đề pháp lý, thực tiễn áp dụng, thực thi các quy định, chính sách pháp luật đối với dạy nghề đối với NKT.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu chế độ dạy nghề đối với người khuyết tật trên lãnh thổ Việt Nam từ trước năm 2006 đến nay. Với lý do, năm 2006 là mốc thời gian Quốc hội khóa XI ban hành Luật Dạy nghề, trong đó dành riêng một chương cho vấn đề dạy nghề đối với NKT.
5. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn đã góp phần làm rõ hệ thống lý luận, từ đó có những nhận thức mới, sâu sắc hơn về những vấn đề pháp lý cơ bản đối với pháp luật dạy nghề cho NKT trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, từng bước tạo nên môi trường lao động hài hòa, không rào cản cho NKT phù hợp với Công ước về quyền của NKT.
- Luận văn cũng đã phân tích và đánh giá hệ thống pháp luật về dạy nghề cho người khuyết tật; chỉ ra được những điểm tích cực, hạn chế, nguyên nhân những hạn chế cơ bản của hệ thống văn bản hiện hành và thực tiễn thi hành pháp luật dạy nghề cho NKT.
- Trên cơ sở những nghiên cứu về thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi, luận văn đã đề xuất các giải pháp, phương hướng hoàn thiện các quy định, cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật, góp phần tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực dạy nghề cho NKT.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước, cải cách hành chính xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn được thực hiện bằng các phương pháp nghiên cứu khoa học như phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê và một số phương pháp khác.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu và kết luận, Luận văn được kết cấu thành 3 chương cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về dạy nghề đối với người khuyết tật ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam.
Chương 3: Quan điểm, định hướng và các kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật ở Việt Nam.