3.2.2 Về hồ sơ chào bán cổ phiếu ra công chúng
Hiện nay hồ sơ chào bán cổ phiếu ra công chúng vẫn còn khá cầu kỳ. Đặc biệt là yêu cầu báo cáo tài chính hàng năm phải được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán được chấp nhận. Hiện nay pháp luật chưa quy định về tiêu chuẩn đối với tổ chức kiểm toán thực hiện kiểm toán, chưa đưa ra các tiêu chí cụ thể để đánh giá nội dung hoạt động kiểm toán của tổ chức đó như khi tổ chức kiểm toán xác định giá trị ngân hàng thì những tiêu chí bắt buộc nào phải có để ngân hàng được xem là có đủ điều kiện chào bán cổ phiếu ra công chúng. Vì vậy, Luật Chứng khoán cần cân nhắc về vấn đề này. Bên cạnh đó, Luật cũng cần có những quy định để gắn trách nhiệm của tổ chức kiểm toán và kiểm toán viên đối với kết quả hoạt động kiểm toán trong báo cáo tài chính của ngân hàng chào bán. Nếu một tổ chức kiểm toán hoặc kiểm toán đưa ra những thông tin sai lệch trong báo cáo tài chính, thì các nhà đầu tư phải gánh chịu những thiệt hại rất lớn. Mặt khác, những điều kiện của tổ chức kiểm toán hiện nay là quá khắt khe. Điều này sẽ dẫn đến một tất yếu là sự độc quyền của các tổ chức kiểm toán và chi phí kiểm toán vượt quá sức của ngân hàng chào bán cổ phiếu ra công chúng mới lần đầu bước vào thị trường chứng khoán. Vì vậy pháp luật cần nới lỏng các điều kiện về kiểm toán để thúc đẩy các ngân hàng nhanh chóng tham gia vào thị trường chứng khoán thông qua chào bán cổ phiếu ra công chúng.
Để nâng cao hơn nữa trách nhiệm của các ngân hàng phát hành đối với các thông tin trong bản cáo bạch, để bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của các nhà đầu tư pháp luật cần đưa ra các tiêu chuẩn cụ thể để đánh giá tính trung thực của bản cáo bạch cũng như các thông tin liên quan đến tài chính. Về quy định trong bản cáo bạch phải có báo cáo tài chính của ngân hàng trong hai năm gần nhất, như đã nói ở trên, điều này làm hạn chế việc huy động vốn để mở rộng kinh doanh của các ngân hàng mới thành lập. Do vậy, pháp luật nên sửa đổi theo hướng trong bản cáo bạch chỉ cần báo cáo tài chính của một năm gần nhất nhưng phải kèm theo báo cáo kết quả sử dụng nguồn vốn huy động trong đợt chào bán cổ phiếu ra công chúng lần trước.
Bên cạnh đó, trong hồ sơ đăng kí chào bán cổ phiếu ra công chúng cần có thêm nội dung báo cáo về kết quả nguồn vốn sử dụng huy động lần trước. Mặt khác, các cơ quan quản lý thị trường không nên chỉ dừng lại ở việc giám sát các ngân hàng chào bán cổ phiếu ra công chúng trong giai đoạn phát hành mà phải tiếp tục giám sát việc sử dụng vốn của các ngân hàng này. Đây là điều tối quan trọng vì nếu không sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của các nhà đầu tư.
NHNN và UBCK phối hợp để xem xét, hướng dẫn rõ ràng, hợp lý hơn về trình tự, thủ tục thực hiện tăng vốn điều lệ và đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng của tổ chức tín dụng, không nên để các tổ chức tín dụng phải trình những hồ sơ rất phức tạp và với thời gian quá dài như hiện nay.Như vậy mới khuyến khích được các ngân hàng thương mại hiện nay tham gia phát hành cổ phiếu để huy động vốn, không ngừng mở rộng vốn điều lệ, đủ đáp ứng nhu cầu về vốn cho toàn xã hội.
3.2.3 Cụ thể hóa nội dung thông tin công bố:
Bên cạnh nhưng ưu điểm nổi trội của chế độ công bố thông tin ghi nhận trong Luật Chứng khoán, cần tiếp tục xác định nội dung công bố thông tin, trình tự, thời gian công bố, đối tượng phải thực hiện công bố thông tin...Quy định tốt những vấn đề này việc kiểm tra, giám sát, tuân thủ pháp luật của các chủ thể mới có đủ cơ sở pháp lý để thực hiện.
Ngoài đề xuất trên, tôi cho rằng một số vấn đề công bố thông tin cần được tiếp tục xem xét, quy định để đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư. Đó có thể là việc xác định loại thông tin không chính thức (là gì, mục đích nào khi đưa ra các loại thông tin này, có thể là những loại tin nào...). Thực tế cho thấy nhiều thông tin không chính thức về mặt luật pháp nhưng lại quan trọng trong thực tế, vậy quyền lợi của nhà đầu tư có đảm bảo không?pháp luật có cần điều chỉnh đối với các loại thông tin này hay không và nếu điều chỉnh thì điều chỉnh ở mức độ nào là phù hợp? Hoặc đối với việc đính chính, sửa, cập nhập thông tin; việc đính chính đối với các tin đồn như thế nào là đúng pháp luật và bảo vệ lợi ích của người đầu tư cũng cần
tiếp tục làm rõ. Nếu lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư không đảm bảo, khả năng thu hút đầu tư vào thị trường cũng sẽ gặp nhiều khó khăn.
Để xử lý các vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán, Chính phủ đã ban hành Nghị định 85/2010/NĐ – CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng chế tài này chưa sát thực tế, thiếu sức nặng và tính răn đe. Để minh bạch, điều đầu tiên là phải có chuẩn mực về sự minh bạch và sau đó là phải có chế tài cho sự minh bạch. Các chế tài về vi phạm công bố thông tin chủ yếu là phạt hành chính nên chưa đủ sức răn đe. Nên chăng nếu chúng ta áp dụng cả chế tài rút giấy phép hoạt động, chắc chắn tất cả các pháp nhân trên thị trường sẽ ngay lập tức phải kiểm soát sự minh bạch trong hoạt động của chính mình, vì với doanh nghiệp, rút giấy phép đồng nghĩa với phá sản.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Vi Phạm Và Xử Lý Vi Phạm Liên Quan Đến Hoạt Động Chào Bán Cổ Phiếura Công Chúng Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần
- Những Vướng Mắc Trong Thực Tiễn Áp Dụng Pháp Luật Về Chào Bán Cổ Phiếu Ra Công Chúng Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Ở Việt Nam.
- Phương Hướng Hoàn Thiện Pháp Luật Về Chào Bán Cổ Phiếu Ra Công Chúng Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Ở Việt Nam
- Pháp luật về chào bán cổ phiếu ra công chúng của ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam - 15
Xem toàn bộ 122 trang tài liệu này.
Ngoài ra cần phải nâng cao tính minh bạch của thị trường chứng khoán bằng cách:
- Đảm bảo quyền được tiếp cận thông tin của nhà đầu tư. Cơ quan thống kê, phân tích công bố các báo cáo không phải là cho Chính phủ mà là cho thị trường. Thông tin được công bố có thể miễn phí, có thể phải mua, nhưng nhà đầu tư phải được quyền tiếp cận chúng.
- Cần công bố thông tin nhanh chóng, chính xác tới nhà đầu tư, tránh trường hợp các luồng thông tin bị sai lệch. Hiện nay, các nhà đầu tư chủ yếu tiếp cận thông tin doanh nghiệp qua các hình thức văn bản, cần xây dựng hệ thống công bố thông tin số hóa trên thị trường chứng khoán bằng cách xây dựng hệ thống kết nối giữa sở giao dịch chứng khoán và các tổ chức niêm yết chứng khoán, các công ty chứng khoán để mọi đối tượng quan tâm đều có thể tiếp cận dễ dàng.
- Xây dựng cơ chế giám sát thông tin. Hiện nay ở Việt Nam, hầu như không có một cơ quan nào giám sát và đảm bảo chất lượng của các thông tin công bố trên thị trường chứng khoán. Với tình hình hiện nay, rò rỉ thông tin là một điều không tránh khỏi nhưng trong đó có một số thông tin không chính xác. Do các nhà đầu tư ởnước ta đa phần là nhà đầu tư không chuyên nghiệp, họ rất dễ bị giao động bởi các tin đồn. Từ đó, giá chứng khoán bị biến động mạnh. Trong những trường hợp này
thì ai là người được lợi? Ai là người tung ra tin đồn? Tất cả đều không được kiểm soát và giá cổ phiếu bị tác động bởi nhân tố con người rất nhiều.
Tham khảo hệ thống thông tin của thị trường chứng khoán Mỹ được Uỷ ban chứng khoán Mỹ quản lý, giám sát dựa trên một bộ khung pháp luật công bằng, nghiêm minh và minh bạch có thể thấy yếu tố quản lý chuyên nghiệp và kiếm soát thông tin chặt chẽ đã giúp thị trường chứng khoán Mỹ (tuy ra đời sau một số thị trường chứng khoán ở châu Âu) vươn lên vị trí dẫn đầu. Một điều rất đáng quan tâm ở thị trường này đó là sự xuất hiện của các Công ty bảo vệ người đầu tư. Những công ty này có khả năng giúp các nhà đầu tư có sức mạnh chống lại các hành vi công bố các thông tin sai trái, thông tin không trung thực làm ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà đầu tư. Thị trường chứng khoán Trung Quốc cũng đi theo mô hình của thị trường chứng khoán Mỹ với việc thành lập Uỷ ban chứng khoán Nhà nước Trung Quốc ( năm 1992) nhằm thẩm tra tính chính xác và minh bạch đối với những thông tin được công bố chính thức trên thị trường chứng khoán. Hiện nay, thị trường chứng khoán Trung Quốc cũng trở thành một thị trường có uy tín và sức mạnh ở quy mô toàn cầu.
Qua hai ví dụ trên có thể khẳng định sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán luôn đi cùng với sự minh bạch và rõ ràng trong việc công bố thông tin đến các nhà đầu tư. Đây là tiền đề để chuyển từ mô hình quản lý chất lượng sang quản lý theo mô hình công bố thông tin hợp với xu thế chung của thế giới hiện nay.
3.2.4 Bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư
Pháp luật Việt Nam quy định quyền tự do kinh doanh như là một nguyên tắc hiến định, đồng thời bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của các chủ thể, tạo điều kiện phát huy năng lực của mọi cá nhân. Để đáp ứng những yêu cầu đó đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ để bảo vệ các quyền lợi ích chính đáng cho NĐT chứng khoán và cũng là phương thức củng cố niềm tin và trật tự cho hoạt động của TTCK. Đó là:
Một là, để bảo vệ quyền lợi NĐT không chỉ là hoàn thiện những quy định của pháp luật, mà vấn đề đặt lên hàng đầu là xây dựng cơ chế tự kiểm soát trên cơ
sở nâng cao khả năng nhận thức thị trường và năng lực, kỹ thuật đầu tư của NĐT, có như vậy NĐT mới có khả năng tự bảo vệ mình trước nguy cơ bị xâm hại đến quyền, lợi ích của mình. NĐT cá nhân trong nước trình độ còn non kém, đầu tư còn mang tính “bầy đàn”, nên thường dẫn đến thất bại, gây tâm lý chán nản, do vậy cần có phương thức tuyên truyền, phổ biến nhằm năng cao khả năng nhận thức và tiếp cận các thông tin cho các NĐT thông qua các tổ chức hỗ trợ, các hiệp hội.
Hai là, phải xây dựng các quy phạm pháp luật hoàn chỉnh ghi nhận quyền lợi của NĐT cũng như trách nhiệm, chế tài xử phạt và mức bồi thường cụ thể, nhằm bảo vệ quyền mua và bán chứng khoán của NĐT cá nhân, đảm bảo thứ tự ưu tiên trong các lệnh đặt mua, đặt bán và khả năng thanh toán từ phía các CTCK; phải có cơ chế công bố thông tin kịp thời, công khai, chính xác, minh bạch và đáng tin cậy. Việc công khai thông tin về công ty có cổ phiếu, trái phiếu đang giao dịch trên TTCK sẽ giúp NĐT lựa chọn, quyết định mua bán và sẽ tạo sự cạnh tranh hiệu quả, ngăn ngừa hành vi kiếm lời không chính đáng.
Luật Chứng khoán đã có quy định chống việc vi phạm công khai thông tin về công ty có cổ phiếu, trái phiếu đang giao dịch trên TTCK. Luật cũng nêu rõ các loại hình công khai thông tin, thời hạn công khai thông tin, thời hạn đính chính các thông tin cũng như cơ chế bồi thường cụ thể khi công bố thông tin sai lệch, có biện pháp và mức xử phạt rõ ràng để bảo vệ quyền lợi cho NĐT
Ba là, cần thành lập quỹ và công ty bảo vệ NĐT. Có ý kiến cho rằng, hiện nay, nhiều CTCK không có cơ chế quản trị rủi ro hiệu quả để bảo vệ mình và NĐT. Nếu các công ty này sụp đổ, vỡ nợ hay khi NĐT bị lừa, bị chiếm dụng vốn, thì sẽ không có người đứng ra bồi thường cho họ. Việt Nam hiện chưa có một tổ chức nào làm việc này. Trong khi nhiều TTCK phát triển như Mỹ, Hồng Kông, Đài Loan... thì mô hình quỹ và công ty bảo vệ NĐT đã hoạt động rất thành công. Cụ thể, mô hình này tại Mỹ là Công ty bảo vệ NĐT chứng khoán (SIPC), trong khi tại Đài Loan là Trung tâm bảo vệ NĐT chứng khoán (SFIPC) và tại Hồng Kông là Công ty đền bù NĐT (ICC). Cơ chế bảo vệ NĐT được các mô hình này xây dựng dựa trên các yếu tố cơ bản là: Có quy định pháp luật cụ thể trong việc lập và điều hành quỹ
đền bù, bảo vệ NĐT; có một cơ quan công cộng đóng vai trò quản trị và điều hành quỹ; có một cơ chế khởi kiện và tranh tụng tập thể, qua đó, một tổ chức có thể được ủy nhiệm từ trước bởi các thành viên để chủ động đi kiện và tiến hành các biện pháp tố tụng khi có đủ các điều kiện cần thiết. Các công ty, tổ chức, hiệp hội bảo vệ NĐT trong cơ chế này là tổ chức xã hội hoặc thuộc Chính phủ, hoạt động phi lợi nhuận và có nguồn quỹ để bảo vệ NĐT. Quỹ này do các thành viên là những tổ chức tham gia thị trường đóng góp và hỗ trợ tài chính từ phía Nhà nước…
Từ kinh nghiệm của các nước, cũng như thực tiễn hoạt động của TTCK Việt Nam cho thấy, cần sớm ban hành quy định pháp luật để bảo vệ NĐT, đặc biệt là NĐT cá nhân trong đó cho phép thành lập quỹ và công ty bảo vệ NĐT là một lựa chọn khả thi.
Bốn là, phải nâng cao chất lượng quản lý và giám sát thị trường. Việc năng cao năng lực quản lý và giám sát thị trường sẽ tạo nên một trật tự trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Tính minh bạch trong việc công khai hóa thông tin hiện nay còn rất thấp, do vậy, cần đảm bảo sự công khai minh bạch, cũng như có những biện pháp xử lý kịp thời ngăn chặn khi có hành vi vi phạm xảy ra.
Năm là, những hạn chế về cơ sở hạ tầng của TTCK phần nào cản trở hoạt động đầu tư chứng khoán cũng như việc tiếp cận các thông tin của NĐT, do đó cần có cơ chế để thúc đẩy và hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật cho TTCK.
Như vậy, việc bảo vệ quyền lợi NĐT không chỉ thông qua các quy định của pháp luật mà đòi hỏi phải có cơ chế giám sát, thực thi hiệu quả và các NĐT phải tự bảo vệ cho chính quyền lợi của mình.
3.2.5 Tăng thẩm quyền quản lý phát hành
Kinh nghiệm ở các nước cho thấy các cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán đều là cơ quan nằm trong bộ máy hành chính nhà nước vì: i) TTCK là nơi tham gia của hàng triệu nhà đầu tư, hàng ngàn tổ chức phát hành trong quốc gia không giới hạn bởi địa giới hành chính. Vì thế để quản lý TTCK và bảo vệ quyền lơi nhà đầu tư trong toàn quốc không thể giao cho cơ quan thuộc một vùng lãnh thổ hoặc một địa phương nào phụ trách mà phải là cơ quan trung ương, ii)
Công việc chủ yếu của quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK là giám sát, tổ chức thực hiện bảo đảm thi hành luật một cách thường xuyên, đây là công việc thuộc lĩnh vực của cơ quan quản lý hành chính. Do đó cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK phải được thiết kế trong bộ máy hành chính.
Ở Việt Nam, UBCKNN là cơ quan quản lý nhà nước chuyên trách về chứng khoán và TTCK được thành lập theo NĐ của CP số 75/1996/NĐ- CP ngày 28/11/1996 và là cơ quan thuộc Bộ Tài chính. UBCKNN Việt Nam thành lập khi chưa có thị trường chứng khoán tập trung, UBCKNN ra đời nhằm mục đích cơ bản là chuẩn bị những điều kiện cần thiết nhất cho sự ra đời và phát triển của TTCK Việt Nam trong tương lai. Điều đó dẫn tới chức năng của UBCKNN hiện nay không phải chỉ chủ yếu là quản lý, giám sát sự vận hành của TTCK mà còn là tổ chức, xây dựng TTCK Việt Nam phù hợp với hoàn cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam. Trong thời gian tới nên tách UBCK ra khỏi Bộ Tài chính, tức UBCK phải trực thuộc Chính phủ, do Chính phủ điều hành trực tiếp để Uỷ ban có thực quyền để quyết sách,điều tiết thị trường.
Về góc độ phân cấp quản lý nhà nước, theo tác giả thì UBCKNN chỉ nên đóng vai trò quản lý toàn bộ thị trường nói chung và quản lý hoạt động phát hành chứng khoán nói riêng – thị trường sơ cấp. Còn đối với quản lý và điều hành của thị trường thứ cấp thì nên giao cho các SGDCK đảm nhiệm trên cơ sở các quy chế và quy trình nghiệp vụ cụ thể, đồng thời thiết lập cơ chế toàn quyền chỉ đạo, báo cáo và trao đổi thông tin hợp lý hơn. Bởi với những chức năng chi tiết, cụ thể sau đây của SGDCK hoàn toàn phù hợp với vai trò quản lý thị trường thứ cấp:
- Cung cấp, đảm bảo cơ sở vật chất kĩ thuật cho việc giao dịch chứng khoán: cung cấp địa điểm và hệ thống giao dịch. Đảm bảo cho việc giao dịch chứng khoán diễn ra thông suốt, tuân thủ đúng các quy định của quy chế, pháp luật về giao dịch chứng khoán và giá cả giao dịch được thể hiện công khai.
- Tổ chức niêm yết và giám sát các chứng khoán niêm yết, các tổ chức niêm yết: SGD thiết lập và duy trì các chuẩn mực cao đối với chứng khoán được niêm yết, thường xuyên giám sát các hoạt động của các công ty, tổ chức niêm yết và yêu
cầu các tổ chức này thực hiện công bố thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời và công bằng theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích của các NĐT.
- Tổ chức, giám sát chặt chẽ quá trình giao dịch chứng khoán: SGD tổ chức hoạt động giao dịch chứng khoán đồng thời giám sát chặt chẽ đảm bảo cho các giao dịch thực hiện đúng quy chế, công bằng, công khai, minh bạch và làm cho giá cả chứng khoán được hình thành, được xác định công khai, hợp thức. Mặt khác, phải kịp thời phát hiện và ngăn chặn các hành vi, hoạt động giao dịch phi pháp.
- Giám sát chặt chẽ những người tham dự vào quá trình giao dịch: SGDCK thường xuyên giám sát chặt chẽ các thành viên của SGD và các tổ chức khác liên quan đến quá trình giao dịch đảm bảo cho thị trường hoạt động an toàn và hiệu quả nhằm duy trì sự tin tưởng của NĐT với thị trường.
3.2.6 Tăng mức xử phạt vi phạm đối với hoạt động chào bán cổ phiếu ra công chúng.
Các tổ chức quốc tế luôn khuyến nghị các quốc gia thành viên trong việc tổ chức, quản lý thị trường: Phải trao cho cơ quan quản lý thị trường đủ thầm quyền trong quá trình giám sát, kiểm tra, thanh tra và hoạt động cưỡng chế thực thi đầy đủ. Đề xuất này của tôi không nằm ngoài mục đích thu hút nhà đầu tư tham gia thị trường. Chỉ khi các quy định nghiêm ngặt trên thị trường được thực hiện đầy đủ và có chế tài đủ mạnh, có cơ chế xử lý tức thì và nghiêm khắc đối với các đối tượng vi phạm, hoạt động trên thị trường mới ổn định và quyền lợi các nhà đầu tư, đặc biệt các nhà đầu tư không có tổ chức mới được bảo vệ, từ đó tạo ra sức hút đầu tư. Để làm được điều này, luật Chứng khoán các quốc gia thường quy định vị trí pháp lý độc lập cho UBCKNN cùng với quyền năng đầy đủ (đặc biệt là quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật), quyền thanh tra, thậm chí điều tra các hành vi vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán. Nên chăng nhà lập pháp Việt Nam cần tiếp tục xem xét vấn đề này.
Về việc tăng mức xử phạt vi phạm đối với hoạt động chào bán cổ phiếu ra công chúng nên cụ thể hoá các lỗi vi phạm sẽ bị xử lý hành chính như: Sử dụng thông tin ngoài Bản cáo bạch hoặc thông tin sai lệch với thông tin trong Bản cáo