c/ Rủi ro cơ bản: Rủi ro này phát sinh khi lãi suất của các tài sản và công nợ khác nhau có biểu hiện khác nhau cho dù chúng có cùng thời hạn tái định giá.
Ví dụ, ngân hàng huy động được một khoản tiền gửi bằng USD từ một khách hàng. Sau đó, ngân hàng này gửi lại số tiền trên vào tài khoản của mình tại ngân hàng nước ngoài nhằm ăn chênh lệch lãi suất. Tuy nhiên, ngân hàng có thể sẽ phải chịu rủi ro khi biên độ chênh lệch lãi suất của hai khoản tiền gửi đó thay đổi không đoán trước được do sự thay đổi lãi suất với Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED).
d/ Rủi ro quyền lựa chọn: Là loại rủi ro khi khách hàng có thể sử dụng quyền để tham gia hay chấm dứt hợp đồng với lãi suất cố định. Điều này có thể do việc thực hiện quyền lựa chọn trong hợp đồng hay do khách hành chấm dứt hợp đồng do lãi suất ưu đãi hơn trên thị trường. Cụ thể :
Khoản vay với lãi suất cố định cho phép ngân hàng thanh toán toàn bộ công
nợ
bất kỳ lúc nào khi thấy lãi suất giảm, không có lợi cho khách hàng. Trong trường hợp này, các ngân hàng cần đưa điều khoản về phí phạt trong trường hợp khách hàng thanh toán trước kì hạn khi kí kết hợp đồng vay hay thỏa thuận tiền gửi.
Khoản phí phạt này sẽ giúp bù đắp một phần thu nhập lãi mất đi do sau đó ngân hàng phải tái đầu tư khoản vốn nhận được với lãi suất thấp hơn cho những khách hàng sau.
Khoản tiền gửi với lãi suất cố định cho phép khách hàng rút tiền mặt bất cứ lúc nào khi thấy lãi suất tăng, không có lợi cho khách hàng.
1.2.3. Rủi ro thanh khoản
Đối với các tổ chức tín dụng nói chung, thì rủi ro thanh khoản gây ra đối với các ngân hàng là thường xuyên và nghiêm trọng hơn cả. Nguyên nhân chính xuất phát từ đặc điểm mang tính đặc thù của bảng cân đối tài sản là: Ngân hàng đã dùng các nguồn vốn ngắn hạn bên tài sản nợ để tài trợ cho các tài sản có. Ngoài ra, khi những người gửi tiền nhận thấy Ngân hàng gặp rắc rối về thanh khoản thì đồng loạt rút tiền ngay lập tức ra khỏi Ngân hàng, hơn nữa hành động rút tiền của những người gửi tiền có tính lây lan và phản ứng dây chuyền nhanh chóng và rộng khắp.
a. Khái niệm về thanh khoản và rủi ro thanh khoản:
Tính thanh khoản của ngân hàng thương mại được xem như khả năng tức thời (the short-run ability) để đáp ứng nhu cầu rút tiền gửi và giải ngân các khoản tín dụng đã cam kết. Như vậy:
Rủi ro thanh khoản là loại rủi ro khi ngân hàng không có khả năng cung ứng đầy đủ lượng tiền mặt cho nhu cầu thanh khoản tức thời; hoặc cung ứng đủ nhưng với chi phí cao. Nói cách khác, đây là loại rủi ro xuất hiện trong trường hợp ngân hàng thiếu khả năng chi trả do không chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền mặt hoặc không thể vay mượn để đáp ứng yêu cầu của các hợp đồng thanh toán.
b. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản:
Thanh khoản có vấn đề của một ngân hàng có thể do các nguyên nhân cơ bản sau
đây:
Một là, ngân hàng vay mượn quá nhiều các khoản tiền gửi ngắn hạn từ các cá nhân và định chế tài chính khác; sau đó chuyển hoá chúng thành những tài sản đầu tư dài hạn. Cho nên, đã xãy ra tình trạng mất cân đối về kỳ hạn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, mà thường gặp là dòng tiền thu về từ tài sản đầu tư nhỏ hơn dòng tiền chi ra để trả các khoản tiền gửi đến hạn.
Hai là, sự thay đổi của lãi suất có thể tác động đến cả người gửi tiền và người vay vốn. Khi lãi suất giảm, một số người gửi tiền rút vốn khỏi ngân hàng để đầu tư vào nơi có tỷ suất sinh lợi cao hơn; còn những người đi vay tích cực tiếp cận các khoản tín dụng vì lãi suất đã thấp hơn trước. Như vậy, rốt cuộc lãi suất thay đổi sẽ ảnh hưởng trạng thái thanh khoản của ngân hàng. Hơn nữa, những xu hướng của sự thay đổi lãi suất còn ảnh hưởng đến giá trị thị trường của các tài sản mà ngân hàng có thể đem bán để tăng thêm nguồn cung thanh khoản và trực tiếp ảnh hưởng đến chi phí vay mượn trên thị trường tiền tệ.
Ba là, do ngân hàng có chiến lược quản trị rủi ro thanh khoản không phù hợp và kém hiệu quả như: các chứng khoán đang sở hữu có tính thanh khoản thấp, dự trữ của ngân hàng không đủ cho nhu cầu chi trả...
1.2.4. Rủi ro tỷ giá
a. Khái niệm rủi ro tỷ giá:
Kinh doanh ngoại hối là một lĩnh vực hoạt động kinh doanh rất quan trọng
của Ngân hàng thương mại, phạm trù này liên quan chặt chẻ với tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái là sự so sánh giá cả của một đồng tiền quy đổi ra một đồng tiền khác giữa các nước. Vì vậy, trong nền kinh tế thị trường tỷ gía cũng luôn biến động, việc Ngân hàng nắm giữ các chứng khoán, các khoản vay nợ ngoại tệ hoặc tiền mặt ngoại tệ sẽ bị rủi ro do tỷ giá thay đổi.
Rủi ro tỷ giá là rủi ro xuất hiện khi có sự dịch chuyển tỷ giá của các ngoại tệ mà NHTM giữ dưới dạng tài sản Có, tài sản Nợ hoặc cả hai tức là tạo trạng thái ngoại hối mở (open or unhedged position) để đầu cơ kiếm lãi khi tỷ giá thay đổi.
b. Phân loại rủi ro tỷ giá
- Rủi ro thị trường: Khi thị trường xảy ra các biến động: Hoạt động ngoại hối mà đặc biệt là tỷ giá luôn gắn liền và chịu ảnh hưởng của tình hình vĩ mô nền kinh tế, đặc biệt là tình hình biến động lãi suất, xuất nhập khẩu, nhập siêu… những nhân tố này có tác động rất lớn đến sự biến động của tỷ giá hối đoái.
- Rủi ro chính sách: Đặc biệt các chính sách tài chính và tiền tệ của quốc gia có tác động rất lớn đến thị trường hối đoái và tỷ giá hối đoái.
- Rủi ro tâm lý: Tâm lý của dân chúng cũng có tác động không nhỏ đến tỷ giá hối đoái, đặc biệt là tâm lý số đông, các hoạt động cung cầu ngoại tệ trên thị trường bị chi phối bởi yếu tố tâm lý, các tin đồn cũng như các kỳ vọng vào tương lai
- Rủi ro khác: Thiên tai, lũ lụt,…ảnh hưởng đến đời sống và tác động đến lượng
kiều hối,….. tạo ra những tác động lên tỷ giá hối đoái.
c. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tỷ giá hối đoái:
Nguyên nhân chủ quan:Do trạng thái ngoại hối của ngân hàng không cân xứng, tức là có sự chênh lệch giá trị tài sản Có và tài sản Nợ ngoại hối hoặc chênh lệch giữa doanh số mua vào và bán ra của đồng tiền nước ngoài. Từ sự không cân xứng đó, khi ngân hàng thực hiện mua và bán ngoại tệ cho khách hàng hoặc cho
chính ngân hàng nhằm mục đích đầu cơ kiếm lãi khi tỷ giá biến động thì rủi ro sẽ
xuất hiện khi tỷ giá biến động theo chiều hướng bất lợi cho ngân hàng.
Nguyên nhân khách quan:Do sự biến động tỷ giá theo chiều hướng bất lợi đối với ngân hàng. Nguyên nhân của sự biến động này là: mất cân đối giữa cung – cầu ngoại tệ trên thị trường, cán cân thanh toán quốc tế; chính sách thuế quan, năng suất lao động, tình hình kinh tế chính trị của mỗi nước, lãi suất giữa đồng ngoại tệ và nội tệ….
1.2.5. Rủi ro công nghệ
Những năm gần đây, đổi mới công nghệ-hiện đại hóa công nghệ ngân hàng đã trở thành chủ đề được NHNN Việt Nam cũng như hệ thống các NHTM đặc biệt quan tâm để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Các NHTM đã tập trung nâng cao hiệu quả hoạt động bằng những khoản đầu tư lớn vào các lĩnh vực như công nghệ thông tin, cơ sở hạ tầng công nghệ,…Bằng chứng là các NH thiệt lập một mạng lưới máy rút tiền, gửi tiền tự động - ATM, máy thanh toán –POS, xây dựng hệ thống chuyển tiền tự động trong và ngoài nước với thời gian ngắn nhất, hệ thống phần mềm quản lý hiện đại giúp thực hiện giao dịch nhanh chóng với số lượng cực lớn.
Việc áp dụng công nghệ ngân hàng hiện đại sẽ cho phép các NH tiến hành các hoạt động kinh doanh trên quy mô lớn, nâng cao chất lượng, giảm thiểu rủi ro. Tuy nhiên, việc áp dụng công nghệ vào ngân hàng thường xuất hiện rủi ro trong các trường hợp sau:
- Việc ứng dụng nhiều hơn các công nghệ tự động tiềm ẩn khả năng chuyển đổi các lỗi do xử lý thủ công sang rủi ro hệ thống, khi các hoạt động nghiệp vụ dựa nhiều vào các hệ thống công nghệ đang được sử dụng rộng rãi.
- Sự phát triển của các nghiệp vụ giao dịch điện tử và các ứng dụng liên quan hoạt động kinh doanh có thể đẩy ngân hàng tới nguy cơ rủi ro tiềm ẩn như: Các vấn đề về an ninh hệ thống; Sự gian lận bên trong và bên ngoài; Các sự cố do hỏng hóc máy tính.
Kinh doanh thẻ cũng là một dạng của rủi ro công nghệ.
Hoạt động thanh toán thẻ đang phát triển ngày càng mạnh ở hầu hết các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, nhờ sự phát triển nhanh chóng của Công nghệ thông tin, ứng dụng công nghệ mới trong các hoạt động Ngân hàng và sự chuyển hướng tập trung của các Ngân hàng vào lĩnh vực bán lẻ. Công nghệ thông tin kích thích mạnh mẽ quá trình hiện đại hoá hệ thống ngân hàng và là yếu tố tiên quyết tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, qua đó mang lại những lợi ích lớn cho ngân hàng, người tiêu dùng và toàn xã hội. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, rủi ro có thể xảy ra trong quá trình Phát hành và thanh toán thẻ khiến các Ngân hàng gặp nhiều khó khăn, thách thức trong quá trình thanh toán thẻ, bởi khách hàng sử dụng thẻ, cũng như các bên có lợi ích liên quan còn nhiều lo ngại về vấn đề này.
Thẻ ngân hàng là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, ra đời từ phương thức mua bán chịu hàng hóa bán lẻ và phát triển gắn liền với sự ứng dụng công nghệ tin học trong lĩnh vực NH. Thẻ NH là công cụ thanh toán do NH phát hành cấp cho khách hàng sử dụng thanh toán hàng hóa dịch vụ hoặc rút tiền mặt trong phạm vi số sư tiền gửi của mình hoặc hạn mức tín dụng được cấp.
Rủi ro trong hoạt động thẻ là các tổn thất về vật chất hoặc phi vật chất có liên quan đến hoạt động kinh doanh thẻ, bao gồm hoạt động phát hành và hoạt động thanh toán qua thẻ. Đối tượng chịu rủi ro là NH, chủ thẻ hoặc đơn vị chấp nhận thẻ.
1.3. PHÂN LOẠI NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN RỦI RO CỦA NHTM
Ngoài ra, kinh doanh ngân hàng còn có các nhóm nguyên nhân dẫn đến
rủi ro sau:
Nhóm nguyên nhân chủ quan thuộc về năng lực quản trị ngân hàng:
Do không quản lý chặt chẽ thanh khoản dẫn đến thiếu khả năng chi trả.
Cho vay và đầu tư quá mức, ví dụ tập trung cho vay quá nhiều vào một doanh nghiệp hoặc một ngành nào đó; trong đầu tư chỉ chú trọng vào một loại chứng khoán có rủi ro cao.
Do thiếu am hiểu thị trường, thiếu thông tin hoặc phân tích thông tin không đầy đủ dẫn đến cho vay hoặc đầu tư không hợp lý.
Do hoạt động kinh doanh trái pháp luật, tham ô...
Do cán bộ ngân hàng thiếu đạo đức nghề nghiệp, yếu kém về trình độ
nghiệp vụ.
Nhóm nguyên nhân khách quan thuộc về phía khách hàng:
Do khách hàng vay vốn thiếu năng lực pháp lý.
Do khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, kém hiệu quả.
Khách hàng kinh doanh thua lỗ liên tục, hàng hoá không tiêu thụ được.
Quản lý vốn không hợp lý dẫn đến thiếu khả năng thanh khoản.
Chủ doanh nghiệp vay vốn thiếu năng lực điều hành, tham ô, lừa đảo.
Nhóm nguyên nhân khách quan từ môi trường hoạt động kinh doanh:
Do thiên tai, hoả hoạn.
Tình hình an ninh, chính trị trong nước, khu vực không ổn định.
Do khủng hoảng hoặc suy thoái kinh tế, lạm phát, mất cân bằng cán cân thanh toán quốc tế dẫn đến tỷ giá hối đoái biến động bất thường.
Môi trường pháp lý bất lợi, lỏng lẻo trong quản lý vĩ mô.
Khách hàng bị tai tử nạn.
Chính sách của nhà nước thay đổi.
Tổng hợp các nguyên nhân dẫn đến rủi ro của NHTM được trình bày trong hình 1.2.
Rủi ro từ khách hàng:
- Bị thua lỗ
- Sản phẩm lỗi thời
- Cạnh tranh tăng lên
Rủi ro tín dụng:
- Chi phí vốn thay đổi
- Tỷ giá hối đoái
- Lạm phát
- Nợ quá hạn
- Thanh khoản
- Lãi suất
Hình 1.2: Phân loại nguyên nhân rủi ro của NHTM
Rủi ro huy động vốn: - Lãi suất huy động tăng - Cấu trúc vốn biến động. | |
Rủi ro về thuế: - Thuế thu nhập tăng - Thuế VAT tăng | |
Rủi ro pháp lý: - Giới hạn về những giao dịch và dịch vụ Ngân hàng . - Sự hỗ trợ của NHNN không tốt. - Ngưng bảo hộ của NHNN |
Có thể bạn quan tâm!
- Phân tích rủi ro của Ngân hàng TMCP Dầu khí Toàn cầu Chi nhánh Vũng Tàu và giải pháp giảm thiểu rủi ro - 2
- Các Hoạt Động Kinh Doanh Của Ngân Hàng Thương Mại:
- Các Loại Rủi Ro Của Ngân Hàng Thương Mại
- Kinh Nghiệm Của Một Số Quốc Gia Trong Quản Trị Rủi Ro.
- Duy Trì Một Qui Trình Đo Lường Và Giám Sát Tốt Hoạt Động Ngân Hàng.
- Phân Tích Thực Trạng Rủi Ro Trong Quá Trình Hoạt Động Của Gp.bank Vũng Tàu.
Xem toàn bộ 139 trang tài liệu này.
1.4. QUẢN TRỊ RỦI RO KINH DOANH NGÂN HÀNG.
1.4.1.Khái niệm quản trị rủi ro:
Quản trị rủi ro là một quá trình bao gồm các hoạt động nhằm hạn chế, loại bỏ các rủi ro hoặc khắc phục các hậu quả mà rủi ro gây ra đối với hoạt động kinh doanh từ đó tạo điều kiện cho việc sử dụng tối ưu các nguồn lực của doanh nghiệp, giảm đến mức thấp nhất các thiệt hại về người và của cải của doanh nghiệp.
Theo nhiều chuyên gia tài chính, ngân hàng là một trong những lĩnh vực đối mặt với nhiều rủi ro nhất. Các loại rủi ro có mối quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại với nhau và đều có thể gây tổn thất lớn cho hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM). Trong bối cảnh đó, không một ngân hàng nào có thể tồn tại và phát triển lâu dài mà không xây dựng cho mình hệ thống quản trị rủi ro (QTRR) hiệu quả.
Một số rủi ro cơ bản trong kinh doanh ngân hàng: Rủi ro tín dụng (Credit Risk);
Rủi ro tỷ giá hối đoái (Foreign Exchange Rate (Forex) Risk); Rủi ro lãi suất
(Interest Rate Risk); Rủi ro thanh khoản (Liquidity Risk); Rủi ro công nghệ
(Technology risk); Rủi ro tác nghiệp (Operational Risk)…...
Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng được hiểu là những biến cố không mong đợi mà khi xảy ra sẽ dẫn đến sự tổn thất về tài sản của ngân hàng, giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi phí để có thể hoàn thành được một nghiệp vụ tài chính nhất định.
Một ngân hàng kinh doanh bị lỗ liên tục hoặc thường xuyên không đủ khả năng thanh khoản có thể dẫn đến một cuộc rút tiền quy mô lớn và con đường phá sản là tất yếu. Như một hệ quả, rủi ro khiến ngân hàng bị lỗ và bị phá sản, sẽ ảnh hưởng đến hàng triệu người gửi tiền, hàng ngàn doanh nghiệp không được đáp ứng vốn, làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng cao, sức mua giảm sút, thất nghiệp tăng, gây rối loạn trật tự xã hội, và hơn nữa sẽ kéo theo sự sụp đổ của hàng loạt các ngân hàng trong nước và khu vực.
Theo quan điểm kinh doanh ngân hàng hiện đại, được nhiều đồng thuận, cho rằng cần quản trị tất cả các loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng một cách toàn diện. Theo đó, quản trị rủi ro là quá trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học, toàn diện và có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất, mất mát, những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro.
1.4.2. Sự cần thiết và mục đích quản lý rủi ro
Quản lý rủi ro giúp đảm bảo ổn định và vững tài chính cho các NHTM.
Nhìn chung, cơ cấu hoạt động của các NHTM Việt Nam trong thời gian qua hầu như không thay đổi. Chức năng chủ yếu vẫn là trung gian phân bổ nguồn vốn: Từ người cho vay đến người vay, từ người mua đến người bán. Trong quá trình tồn tại, hoạt động NH luôn phải đối phó với rất nhiều vấn đề quan trọng, nhất là duy trì được thương xuyên trạng thái cân đối giữa nhu cầu và khả năng có được nguồn vốn trong mọi điều kiện để đảm bảo ổn định và vững chắc về tài chính cho ngân hàng, thỏa mãn các nhu cầu của khách hàng.
Xu thế tự do hóa tài chính và cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu.