Các Loại Rủi Ro Của Ngân Hàng Thương Mại



Bảo lãnh

Bảo lãnh là việc các NHTM dùng uy tín và khả năng tài chính của mình để bảo lãnh cho khách hàng nếu như họ có yêu cầu. Các loại bảo lãnh mà khách hàng thực hiện: Bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu và các hình thức bảo lãnh khác theo yêu cầu của doanh nghiệp và cá nhân. Thông qua hoạt động bảo lãnh, NH thu phí dịch vụ bảo lãnh.

Dịch vụ thanh toán.

Dịch vụ thanh toán là việc NHTM cung ứng và thực hiện các dịch vụ sau: Hoạt động thu hộ; hoạt động chi hộ; hoạt động chuyển tiền; Dịch vụ thanh toán quốc tế: Đó là việc NH thanh toán tiền cho các bên tham gia hợp đồng ngoại thương dựa trên cơ sở hệ thống NH đại lý của mình trên thế giới. Các hình thức thanh toán quốc tế được NH sử dụng là: Thư tín dụng, chuyển tiền, nhờ thu.

Khi thực hiện các dịch vụ thanh toán kể trên, NHTM thu được các khoản “phí dịch vụ”. Khi nhu cầu dịch vụ thanh toán của nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển sâu rộng trên mọi lĩnh vực thì “ Phí dịch vụ” là khoản thu không nhỏ và có xu hướng ngày càng gia tăng của các NH.

Các dịch vụ khác

Như việc cung ứng các dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ, két,….và các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật. hiệu quả của các hoạt động này thể hiện ở thu nhập từ các hoạt động này. Việc mở các sản phẩm dịch vụ để thu phí trở thành một yếu tố then chốt trong chiến lược tăng cường thu nhập của NHTM những năm gần đây.

1.2. CÁC LOẠI RỦI RO CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 139 trang tài liệu này.

Hoạt động kinh doanh của NHTM thường gặp các loại rủi ro là: Rủi ro tín dụng; Rủi ro lãi suất; Rủi ro thanh khoản; Rủi ro ngoại hối; Rủi ro công nghệ.

Trong điều kiện kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của các NHTM hầu như không có loại nghiệp vụ nào, không có loại dịch vụ nào là không có rủi ro. Rủi ro là khả năng những sự kiện chưa chắc chắn trong tương lai sẽ làm cho

Phân tích rủi ro của Ngân hàng TMCP Dầu khí Toàn cầu Chi nhánh Vũng Tàu và giải pháp giảm thiểu rủi ro - 4


chủ thể không đạt được những mục tiêu chiến lược và mục tiêu hoạt động, cũng như chi phí cơ hội của việc làm mất những cơ hội thị trường. Do đó khái niệm về rủi ro ngân hàng là:

Rủi ro Ngân hàng là những biến cố xảy ra ngoài mong đợi, gây mất mát, thiệt hại về tài sản ( tiền ), thu nhập của Ngân hàng trong quá trình hoạt động của mình.


1.2.1. Rủi ro tín dụng

1.2.1.1. Khái niệm rủi ro tín dụng:

Loại rủi ro này so với các loại rủi ro hàng hoá (H - T ) khác vì ở đây là tiền mà khách hàng phải chuyển hoá công đoạn (T - H - T) mới có khả năng hoàn trả cho Ngân hàng. Có nhiều hình thức cho vay khác nhau nên mức độ rủi ro cũng khác nhau. Chẳng hạng rủi ro đối với cho vay ngắn hạn thường do chất lượng kiểm tra tính toán đầu tư không chặt chẻ so với cho vay trung dài hạn vì ở hai khoản này việc thẩm định một cách kỹ lưỡng nhưng việc thu hồi các khỏan nợ lâu cho nên xác suất xẩy ra rủi ro cao nhiều khi mất cả vốn lẫn lãi.

“Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng khi ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là khả năng các nguồn thu nhập dự tính mang lại từ khoản cho vay của ngân hàng không thể được thực hiện đầy đủ cả về số lượng và thời hạn”, theo A.Saunders và H.Lange định nghĩa.

Còn theo Ủy ban Basle định nghĩa: “Rủi ro tín dụng là khả năng mà khách hàng vay hoặc bên đối tác không thực hiện được các nghĩa vụ của mình theo điều khoản đã thỏa thuận”.

Theo quyết định 493/QĐ-NHNN, của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước tại khoản 1, điều 02 đề cập khái niệm “ Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của TCTD do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.

Có rất nhiều cách khác nhau định nghĩa về rủi ro tín dụng, song các quan

niệm về rủi ro tín dụng đều hội tụ với nhau về bản chất đó là: Rủi ro tín dụng là khả


năng xảy ra những thiệt hại về kinh tế mà NHTM phải gánh chịu do khách hàng vay vốn thanh toán nợ không đúng hạn hoặc không hoàn trả được nợ vay (gồm vốn và/hoặc lãi). Rủi ro tín dụng gây tổn thất về tài chính cho NHTM, làm giảm thu nhập ròng và giảm giá trị thị trường của vốn, trong trường hợp nghiêm trọng sẽ dẫn tới thua lỗ, thậm chí là phá sản.

1.2.1.2. Phân loại rủi ro tín dụng

Tùy vào những thời điểm nhất định, vào giai đoạn hưng thịnh hay suy thoái của nền kinh tế, trong một môi trường kinh tế nhất định với những chính sách cụ thể mà mức độ rủi ro chịu ảnh hưởng khách nhau. Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được phân chia thành các loại sau :

- Rủi ro giao dịch: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có 03 bộ phận chính là rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ.

+ Rủi ro lựa chọn: là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng, khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho vay.

+ Rủi ro bảo đảm: phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể bảo đảm, cách thức đảm bảo và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.

+ Rủi ro nghiệp vụ: là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản cho vay có vấn đề.

- Rủi ro danh mục: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân chia thành 02 loại : rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.

+ Rủi ro nội tại : xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.


+ Rủi ro tập trung : là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định; hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.

Chắc chắn ở bất kỳ một NH nào cũng không muốn để xãy ra rủi ro tín dụng, vì rủi ro tín dụng gắn liền với việc mất một phần hoặc toàn bộ vốn, lãi. Thu hồi nợ chật vật, tỷ lệ nợ quá hạn cao, và đương nhiên là giảm hiệu quả kinh doanh của NH. Nhưng trong thực tế nó vẫn phát sinh ngoài ý muốn của các nhà đầu tư cũng như khách hàng vay vốn.

1.2.1.3. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng.

Nhận diện được những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng giúp ngân hàng chủ động hơn trong công tác phòng ngừa rủi ro.

a. Nguyên nhân khách quan:

- Rủi ro do nguyên nhân bất khả kháng:

Trong hoạt động kinh doanh những tai hoạ và rủi ro do thiên tai nhiều khi quá lớn mà con người đành bó tay. Ví dụ: đầu tư trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi những khi gặp bão lụt hay dịch bệnh nhiều khi mất trắng. Nhưng những biến động của thiên nhiên có tính chất chu kỳ hoặc theo mùa thì đối với nhà kinh doanh có sự quan tâm nghiên cứu dự báo đều có thể tránh hoặc hạn chế thiệt hại.

Bên cạnh đó, quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập kinh tế quốc tế cũng đem đến nhiều rủi ro tất yếu. Môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, khiến nhiều khách hàng của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh giữa các ngân hàng cũng khiến cho các ngân hàng trong nước với hệ thống quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút.

- Rủi ro từ chính sách vĩ mô của nhà nước

Kinh doanh tiền tệ là ngành kinh doanh có ảnh hưởng rất nhiều đến sự ổn định và phát triển của nền kinh tế, do đó hoạt động ngân hàng cũng chịu sự điều tiết


về pháp lý của nhà nước trong đó hoạt động tín dụng ngân hàng là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp. Khi hành lang pháp lý chưa an toàn, môi trường kinh doanh kém lành mạnh và những chính sách thường thay đổi, thiếu đồng bộ sẽ gây những ánh tắc, hệ lụy nặng nề cho hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng.

Trong những năm gần đây, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, NHNN và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều Luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, Luật và các Văn bản đã có song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng vẫn còn chậm và còn gặp phải nhiều vướng mắc bất cập.

- Rủi ro do thông tin bất đối xứng:

Thông tin không cân xứng trên thị trường tài chính dẫn đến sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức đã đặt các NH trước nguy cơ rủi ro cao. Môi trường kinh tế cũng có ảnh hưởng đến sức mạnh tài chính của người đi vay và gây ra thiệt hại hoặc mang đến thành công đối với người cho vay.

- Rủi ro từ phía khách hàng:

Nguyên nhân từ phía người đi vay là một trong những nguyên nhân chính gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Thông thường loại rủi ro này bao gồm:

Rủi ro trong kinh doanh của người đi vay: Rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp được thể hiện ở mức độ biến động ít hay nhiều theo chiều hướng xấu của kết quả kinh doanh. Rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp sẽ xảy ra nếu việc xây dựng và triển khai các phương án, dự án đầu tư sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không khoa học, việc dự toán chi phí và xác định mức sản lượng không phù hợp. Các thiệt hại doanh nghiệp phải gánh chịu do sự biến động của thị trường cung cấp, thị trường tiêu thụ...

Rủi ro tài chính: Rủi ro tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở các doanh nghiệp không thể đối phó với các nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi tiền vay cho chủ nợ. Rủi ro tài chính diễn ra cùng với mức độ sử dụng nợ, nó gắn liền với cơ cấu tài chính doanh nghiệp. Rủi ro này thể hiện ở việc doanh nghiệp sử dụng không hợp lý nguồn vốn vay, dùng nguồn vốn vay trung dài hạn phục vụ cho các nhu cầu đầu tư


vốn lưu động dẫn đến mất cân đối tài chính, mất khả năng chi trả. Đây là loại rủi ro

thường gặp ở một số doanh nghiệp trong thời gian vừa qua.

Nhìn chung đối với các nguyên nhân này ngân hàng có thể xác định được thông qua quá trình tìm hiểu, nắm vững “tình hình sức khỏe của khách hàng” cả trước, trong và sau khi cho vay, tìm hiểu mục đích sử dụng tiền vay và hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh.

Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác thuộc về khách hàng vay như khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, hoặc khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng như lập hồ sơ giả, làm giả giấy tờ tài sản thế chấp để vay tiền ngân hàng....Nội bộ khách hàng không đoàn kết nhất trí, tồn tại mâu thuẫn trong công tác quản lý cũng khiến cho hoạt động bị ngừng trệ, sản xuất bị đình đốn, không có tiền trả nợ ngân hàng.

b. Nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng

- Do sự yếu kém trong công tác điều hành quản trị.

Yếu tố con người đóng vai trò quyết định trong kinh doanh khi môi trường kinh doanh ngày càng được quốc tế hoá và cạnh tranh quyết liệt như ở nước ta hiện nay. Nhiều nhà quản trị chưa đủ các điều kiện để điều hành ngân hàng, chưa được đào tạo một cách cơ bản, không nắm bắt nhanh kịp thời thông tin thay đổi, thiếu bản lĩnh trong điều hành, chưa am hiểu pháp luật, bố trí nhân sự không phù hợp với trách nhiệm,..Một số ngân hàng áp dụng việc giải quyết cho vay theo kiểu “trực tuyến cá nhân” từ cán bộ tín dụng đến trưởng phòng tín dụng đến giám đốc. Thực tế, việc áp dụng tổ chức cho vay này thì quyền lực tập trung vào giám đốc còn trách nhiệm của cá nhân bên dưới thường không rõ ràng, từ đó dẫn đến thiếu tinh thần trách nhiệm, dễ xảy ra rủi ro tín dụng

- Rủi ro do cán bộ không thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ

Quy trình cho vay ở hầu hết các ngân hàng thương mại hiện nay là tương đối đầy đủ và phù hợp với cơ chế thị trường và quy định pháp luật nhằm đảm bảo an toàn vốn vay cho tổ chức tín dụng.

Quy trình nghiệp vụ cho vay phải tuân thủ các nguyên tắc:


1. Vốn vay phải bảo đảm bằng giá trị vật tư, hàng hóa tương đương. Cho vay

phải hoàn trả vốn, trả lãi đúng hạn và sử dụng vốn vay đúng mục đích.

2. Cho vay phải tuân thủ các điều kiện: lập hồ sơ vay, có tài sản đảm bảo...

3. Phải tuân thủ chặt chẽ các bước kiểm tra, kiểm soát ở các công đoạn trước, trong và sau khi cho vay.

Tuy nhiên, khi thực hiện cho vay vì nhiều lý do khác nhau mà cán bộ tín dụng đã bỏ qua các quy trình nghiệp vụ, việc kiểm tra, kiểm soát trong nội bộ ngân hàng còn bộc lộ nhiều hạn chế từ việc thẩm định cho vay đến việc bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh mở L/C...

Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách chủ động để đảm bảo sẽ được hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Tuy nhiên, trong thời gian qua các NHTM chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này do một phần yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh của các khách hàng quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà NHTM yêu cầu.

- Rủi ro do nhân viên ngân hàng thái hoá về đạo đức, biến chất, tư lợi:

Một số trường hợp cán bộ tín dụng hoặc lãnh đạo ngân hàng cấu kết với khách hàng, xảy ra những tiêu cực trong cho vay thì thì nguy cơ xảy ra rủi ro đối với món vay đó là rất cao. Không phải do trình độ năng lực yếu kém, không đủ sức thẩm định độ tin cậy của dự án hay phương án xin vay mà do tư lợi, đạo đức phẩm chất của một số cán bộ ngân hàng có chiều hướng thái hoá biến chất. Mặc dù luật pháp, quy chế nghiệp vụ và những ràng buộc khác có chặt chẽ đến đâu họ vẫn tìm cách vi phạm và rủi ro xảy ra.

1.2.2. Rủi ro lãi suất

1.2.2.1. Khái niệm rủi ro lãi suất

Rủi ro lãi suất là khả năng thu nhập giảm do chênh lệch lãi suất giảm khi lãi suất thị trường thay đổi ngoài dự kiến gắn với thay đổi nhiều nhân tố khác như cấu

trúc và kỳ hạn của tài sản và nguồn, quy mô và kỳ hạn của các hợp đồng kỳ hạn…..


Lãi suất là công cụ quan trọng trong cơ chế lãi suất để Ngân hàng hoạt động

có hiệu quả trong các tầng lớp dân cư, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế.

Trong cơ chế thị trường, lãi suất của Ngân hàng thương mại được hình thành trên cơ sở lãi suất thị trường, vì thế luôn luôn biến động . Rủi ro này bắt nguồn từ quan hệ tài sản có và tài sản nợ. Cơ cấu tài sản có, tài sản nợ mức độ mất cân đối của nó sẽ quyết định tình thế rủi ro lãi suất của một Ngân hàng. Điển hình là nếu Ngân hàng dùng tài sản nợ ngắn hạn hoặc với lãi suất biến đổi để đầu tư vào tài sản có dài hạn hơn với lãi suất biến đổi để đầu tư vào tài sản có dài hạn hơn vẫn giữ nguyên. Những thiệt hại do lãi suất gây ra làm chi phí nguồn vốn (tài sản nợ), cao hơn thu nhập sử dụng vốn (tài sản có )lúc đó kinh doanh bị lỗ vốn. Ngoài ra, do sự giảm sút gía trị của đồng tiền trong thời hạn chi vay dẫn tới tình trạng: Tuy lãi suất cho vay không thay đổi nhưng lãi suất thực tế giảm sút. Vốn và lãi Ngân hàng thu về có giá trị thực tế không bằng vốn bỏ ra ban đầu .(lạm phát).

1.2.2.2. Phân loại rủi ro lãi xuất

a/ Rủi ro tái định giá: Mức độ nhạy cảm của tài sản và công nợ đối với lãi suất phụ thuộc vào kì hạn cho tới ngày định giá gần nhất. Khi đó, lãi suất được thay đổi lại trong thời gian kì hạn của hợp đồng hay thỏa thuận tiền gửi. Thời hạn tái định giá là khoảng thời gian còn lại tính đến ngày lãi suất được thay đổi lại. Như vậy, thời hạn tái định giá là khái niệm hoàn toàn khác so với thời gian đáo hạn do thời gian đáo hạn là thời điểm hợp đồng hay thỏa thuận tiền gửi kết thúc. Trong khoảng thời gian đáo hạn có thể có nhiều thời hạn tái định giá. Bởi vậy, với những tài sản và công nợ có tài sản có lãi suất thả nổi, thời gian hợp lý nhất để đánh giá rủi ro lãi suất là thời hạn tái định giá, chứ không phải thời gian còn lại đến khi đáo hạn.

b/ Rủi ro mất cân đối: Sự mất cân đối giữa ngày đáo hạn theo hợp đồng của tài sản với lãi suất cố định và công nợ dùng để tài trợ các tài sản đó sẽ tạo ra rủi ro lãi suất. Ví dụ, một tài sản với thời gian đáo hạn là 4 năm được tài trợ bởi công nợ đáo hạn trong 3 năm sẽ tạo ra rủi ro lãi suất trong 1 năm còn lại khi cần phải thương thảo lại nguồn tài trợ thay thế.

Xem tất cả 139 trang.

Ngày đăng: 06/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí