Yêu Cầu Nâng Cao Chất Lượng Tranh Luận Của Kiểm Sát Viên Tại Phiên Tòa Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự

hợp được bổ nhiệm lại hoặc nâng ngạch thì thời hạn là 10 năm” (Điều 82). Quy định như vậy là không phù hợp với tình hình hiện nay. Qua nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, đa số các nước quy định nhiệm kỳ của chức danh này không kỳ hạn. Việc bổ nhiệm không kỳ hạn sẽ tạo điều kiện cho Kiểm sát viên độc lập, chủ động và tăng cường trách nhiệm trong công việc. Hiện nay, pháp luật thi hành án dân sự hiện hành ở Việt Nam không quy định nhiệm kỳ của chấp hành viên (điều đó có nghĩa là bổ nhiệm không kỳ hạn), trong khi đó Luật Tổ chức VKSND 2014 quy định nhiệm kỳ đối với Kiểm sát viên. Nên chăng cần nghiên cứu, sửa đổi quy định này theo hướng quy định không kỳ hạn, trong trường hợp đó, nên quy định về trình tự, thủ tục bổ nhiệm, bãi miễn chức danh này.

- Những quy định có tính hành chính hiện hành đã làm hạn chế tính độc lập của HĐXX và Kiểm sát viên không có đầy đủ thẩm quyền tại phiên toà, điều đó làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ thẩm án hình sự. Người tiến hành tố tụng có trường hợp do sợ trách nhiệm cá nhân, do không muốn vướng phải những rắc rối mỗi khi hết nhiệm kỳ muốn tái bổ nhiệm nên tránh né bằng việc báo cáo, thỉnh thị xin ý kiến cấp trên. Tư tưởng này ngày càng có xu hướng phát triển, nó đi ngược lại tinh thần cải cách tư pháp. Đây là những hạn chế làm mất đi tính độc lập của HĐXX và như vậy làm hạn chế hiệu quả do người bào chữa đem lại qua tranh luận với Kiểm sát viên tại phiên toà.

Thứ hai, nguyên nhân về phía VKSND tỉnh Đồng Nai nói chung, VKSND thành phố Biên Hòa nói riêng và Kiểm sát viên.

- Về phía VKSND tỉnh Đồng Nai nói chung, VKSND thành phố Biên Hòa nói riêng: Công tác lãnh đạo, chỉ đạo vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định, mà nguyên nhân là do lãnh đạo quá nhiều việc, nhất là công việc quản lý hành chính, hội họp chiếm nhiều thời gian cho nên thời gian dành cho nghiên cứu, công tác nghiệp vụ không được nhiều. Sự phân định giữa chức năng quản lý hành chính với chức năng pháp lý, chỉ đạo chuyên môn nghiệp vụ chưa có ranh giới rò ràng. Công tác kiểm tra, giám sát của lãnh đạo VKSND tỉnh và VKSND

thành phố đối với Kiểm sát viên chưa được thường xuyên nên việc phát hiện, uốn nắn những sai lệch chưa kịp thời.

Bên cạnh đó, công tác tổng kết, rút kinh nghiệm về tranh tụng và đặc biệt là tranh luận tại phiên tòa chưa được VKSND tỉnh Đồng Nai nói chung, VKSND thành phố Biên Hòa nói riêng quan tâm, chú trọng. Vì vậy, chưa thường xuyên đúc rút được kinh nghiệm để phổ biến tới hệ thống cơ quan VKSND, Kiểm sát viên thuộc VKSND tỉnh Đồng Nai.

- Về phía Kiểm sát viên: Như đã phân tích ở mục 2.3.2 thì trình độ và năng lực của một bộ phận Kiểm sát viên vẫn còn hạn chế, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Đây là nguyên nhân chính thuộc yếu tố chủ quan làm hạn chế việc thực hiện vai trò của Kiểm sát viên trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử nói chung, trong tranh tụng và tranh luận tại phiên toà nói riêng. Bởi lẽ, chất lượng tranh luận, suy cho cùng do con người, phụ thuộc vào khả năng chuyên môn của những Kiểm sát viên trực tiếp thực hiện. Kiểm sát viên tại phiên toà không chỉ cần có sự dũng cảm, bản lĩnh dám chịu trách nhiệm, điều rất cần thiết đó là năng lực chuyên môn. Chỉ có vững về năng lực chuyên môn, nắm chắc hồ sơ vụ án, khả năng ứng xử tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng thì kiểm sát viên mới có thể tranh tụng, tranh luận tốt tại phiên toà. Tuy nhiên không phải tất cả các Kiểm sát viên VKSND thành phố Biên Hòa đã đáp ứng đầy đủ các yêu cầu này nên vẫn còn tư tưởng đâu đó là né tránh tranh luận.

Thứ ba, nguyên nhân từ phía bên gỡ tội (người bào chữa, bị cáo).

Theo lý thuyết, muốn cho hoạt động tranh luận có hiệu quả, điều kiện trước hết đó là sự hoạt động tích cực của hai chủ thể quan trọng: Đội ngũ Kiểm sát viên và Luật sư bào chữa. Theo đó, hai chủ thể này phải có sự phát triển cả về số lượng và chất lượng đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp. Tuy vậy, về phía Luật sư, theo thống kê thì trong giai đoạn 2016 – 2020 số vụ án hình sự sơ thẩm có sự tham gia của Luật sư bào chữa là 116 vụ, chiếm 3,67% tổng số vụ được TAND thành phố Biên Hòa đưa ra xét xử. Con số này là quá ít và rò ràng đã làm hạn chế rất lớn đến quá trình tranh luận tại tòa.

Bên cạnh đó, qua nghiên cứu thấy rằng, ở góc độ chung của người bào chữa thì đa phần họ còn lệ thuộc quá nhiều vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án do cơ quan điều tra, VKSND thu thập trước đó mà chưa chủ động thu thập chứng cứ và tài liệu để phục vụ việc bào chữa. Việc thực hiện bào chữa của luật sư theo chỉ định thường ít tâm huyết mà chỉ mang tính hình thức do chế độ vật chất hiện nay dành cho người bào chữa còn thấp. Thái độ, phương pháp, kỹ năng tố tụng tại phiên tòa, đặc biệt là kỹ năng tranh luận của một số luật sư thiếu tính chuyên nghiệp nên chưa tạo ra đối trọng thực sự cho Kiểm sát viên. Với bị cáo, bị hại, phần lớn việc tranh tụng, tranh luận tại phiên tòa với họ rất hạn chế do trình độ, khả năng am hiểu pháp luật chưa cao và vì lý do kinh tế nên hầu như họ ít thuê được luật sư đại diện cho họ để tranh tụng, tranh luận tại phiên tòa.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.

Thứ tư, nguyên nhân về cơ sở vật chất phục vụ công tác và chế độ, chính sách đối với Kiểm sát viên.

Cơ sở, vật chất, trang thiết bị làm việc của VKSND thành phố Biên Hòa tuy đã được cải thiện hơn những năm trước, nhưng cũng vẫn còn thiếu thốn, nhất là so với sự phát triển chung của xã hội và trong mối tương quan với các ngành khác. Việc trang bị các tài liệu, sách báo phục vụ hoạt động tranh tụng, tranh luận của Kiểm sát viên, nhất là các văn bản pháp luật còn chưa thường xuyên và chưa kịp thời. Bởi vậy, việc cập nhật chưa đầy đủ các văn bản về chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước có liên quan đến chất lượng tham gia tranh tụng, tranh luận của Kiểm sát viên VKSND thành phố Biên Hòa tại phiên toà xét xử các vụ án hình sự bị hạn chế.

Tranh luận của kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự từ thực tiễn thành phố Biên Hòa tỉnh Đồng Nai - 8

Chế độ chính sách, tiền lương cũng như chế độ đãi ngộ đối với cán bộ Kiểm sát viên còn thấp, chưa tương xứng với trách nhiệm và công sức bỏ ra. Một số cán bộ Kiểm sát viên bị mặt trái của cơ chế thị trường tác động làm mất ý chí phấn đấu, không toàn tâm, toàn ý lo công việc mà tập trung lo cải thiện đời sống, thậm chí có cán bộ Kiểm sát viên dành phần lớn thời gian vào việc mưu sinh.

Thứ năm, nguyên nhân do sự quá tải trong công việc của Kiểm sát viên.

Đây cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến chất lượng tranh tụng nói chung, tranh luận nói riêng của Kiểm sát viên bị hạn chế. Với bình

quân mỗi năm đưa ra xét xử 630,8 vụ, 988,4 bị cáo thì bình quân mỗi Kiểm sát viên THQCT và KSXX 19,11 vụ với 29,95 bị cáo mỗi năm là con số khá lớn. Trong khi đó nhiệm vụ của Kiểm sát viên không chỉ là THQCT và KSXX mà còn những nhiệm vụ khác gắn với chức năng, nhiệm vụ của VKSND và Kiểm sát viên. Bên cạnh áp lực số lượng án phải giải quyết lớn thì Kiểm sát viên còn bị áp lực về thời gian tố tụng nên việc nghiên cứu hồ sơ vụ án và xây dựng hồ sơ kiểm sát cũng như trích cứu tài liệu chứng cứ, chuẩn bị bài phát biểu quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên toà còn được giao cho các chuyên viên, do vậy chất lượng hồ sơ kiểm sát cũng như chất lượng bài phát biểu quan điểm của Kiểm sát viên, chất lượng tranh tụng, tranh luận tại phiên toà sơ thẩm bị hạn chế.

Tiểu kết Chương 2

Pháp luật TTHS hiện nay đã có những quy định cụ thể, rò ràng và đầy đủ hơn về tranh tụng và tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự nói chung, tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự nói riêng. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để Kiểm sát viên thực hiện hoạt động tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.

Đối với Kiểm sát viên VKSND thành phố Biên Hòa, trong những năm qua, việc tranh luận tại toà đã có nhiều tiến bộ, nội dung tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên toà đã sắc bén hơn trước, luận cứ vững chắc và thấu tình đạt lý hơn. Kiểm sát viên đã quan tâm lắng nghe các ý kiến tranh luận của các chủ thể khác và tôn trọng các ý kiến đó, các chứng cứ, tình tiết được tranh luận, mổ xẻ thấu đáo hơn. Từ cuộc tranh tụng dân chủ, công khai và bình đẳng giữa Kiểm sát viên và bên gỡ tội, Toà án thành phố Biên Hòa có thể đưa ra đánh giá, nhận định một cách tổng hợp, có hệ thống đối với toàn bộ vụ án.

Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên VKSND thành phố Biên Hòa tại phiên tòa sơ thẩm hình sự vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót. Nhiều nội dung tranh luận tại phiên toà chưa thể hiện được kết quả điều tra xác minh tại phiên toà; trong giai đoạn tranh luận Kiểm sát viên không lập luận một cách thuyết phục, có trường hợp tranh luận thể hiện thái độ thiếu khách quan, thiếu trách nhiệm và gây tâm lý cho rằng phiên toà chỉ là hình thức, dẫn đến làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào công lý.

Cùng với việc làm rò các quy định của pháp luật TTHS về hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự, tác giả luận văn đã đánh giá thực tiễn hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên VKSND thành phố Biên Hòa tại phiên tòa sơ thẩm hình sự, làm rò những ưu điểm và hạn chế, thiếu sót, tác giả cũng đã chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến chất lượng tranh luận của Kiểm sát viên VKSND thành phố Biên Hòa tại phiên tòa sơ thẩm hình sự viện chưa cao. Đây là cơ sở quan trọng để tác giả luận văn đề xuất các giải pháp trong Chương 3 luận văn.

Chương 3

YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TRANH LUẬN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA


3.1.Yêu cầu nâng cao chất lượng tranh luận của kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

Nâng cao chất lượng hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên VKSND thành phố Biên Hòa trong phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự xuất phát từ những yêu cầu sau:

3.1.1. Xuất phát từ yêu cầu cải cách tư pháp

Nhận thức được tầm quan trọng của cải cách tư pháp, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương lớn, thể hiện trong nhiều Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 08 - NQ/TW ngày 02/02/2002 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Nghị quyết số 48 - NQ/TW ngày 24/5/2005 về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010 định hướng đến năm 2020. Việc ban hành những văn bản quan trọng này thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với nhiệm vụ cải cách tư pháp nói chung, tạo bước chuyển biến mới trong nhận thức và hành động của các cơ quan tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, góp phần bảo vệ công lý, thúc đẩy sự phát triển ổn định của nền kinh tế - xã hội.

Trong quá trình cải cách tư pháp, vấn đề chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Kiểm sát viên nói chung và hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên toà xét xử các vụ án hình sự nói riêng được quan tâm và đề cập đến nhiều trong nhiều văn kiện. Nghị quyết số 08 - NQ/TW ngày 02/02/2002 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới nhấn mạnh đến việc nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tranh tụng khác. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005

của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nhấn mạnh đến việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp.

Trong nội dung cải cách tư pháp, tranh tụng, tranh luận đã và đang là một trong những vấn đề thường xuyên được đề cập đến và cũng còn nhiều ý kiến khác nhau. Đặc biệt từ khi Nghị quyết số 49- NQ/TW của Bộ Chính trị được ban hành thì vấn đề tranh tụng, tranh luận đã thực sự trở thành vấn đề thời sự nóng hổi, không chỉ được tranh luận tại các Hội nghị khoa học và các Hội nghị về tư pháp mà còn trở thành một yêu cầu bức thiết trong hoạt động xây dựng pháp luật cũng như trong hoạt động áp dụng pháp luật. Trong giai đoạn hiện nay, việc nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên nói chung, tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự nói riêng là nhiệm vụ cấp thiết.

Vấn đề tranh tụng, tranh luận đã được đặt ra từ nhiều năm, Nghị quyết số 08 và Nghị quyết số 49 đã khẳng định là tranh tụng khâu đột phá trong tiến trình cải cách tư pháp, là xu hướng vận động tất yếu của quá trình dân chủ hoá, trong đó tranh luận thể hiện một cách tập trung nhất, rò nét nhất của tranh tụng. Hiện nay, tranh tụng đã được cụ thể hoá thành một nguyên tắc trong Bộ luật TTHS năm 2015. Thực tiễn triển khai thực hiện việc tranh tụng tại các phiên tòa sơ thẩm hình sự thời gian qua cho thấy các chủ thể tham gia tố tụng tại phiên tòa đã được bình đẳng hơn về địa vị pháp lý; việc tranh luận dân chủ hơn; bảo đảm tốt hơn quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng và do đó chất lượng xét xử của Tòa án đã được nâng lên một bước. Tuy vậy, trong thực tế, do nhiều lý do khách quan và chủ quan, có lúc, có nơi, vấn đề tranh tụng và tranh luận vẫn chưa được phân định rò ràng, quá trình thực hiện tranh tụng và tranh luận chưa thực hiện một cách đầy đủ, nghiêm túc. Do vậy, tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng nói chung, tranh tụng của Kiểm sát viên và tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự nói riêng là một yêu cầu cấp bách trong bối cảnh cải cách tư pháp hiện nay. Việc nâng cao hiệu quả tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự là một trong những vấn đề có tính then chốt nhằm nâng cao chất lượng toàn bộ hoạt động tranh tụng tại Tòa, từng bước đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.

3.1.2. Xuất phát từ yêu cầu bảo vệ quyền con người, quyền công dân

Bảo vệ quyền con người, quyền công dân là một yêu cầu có tính nguyên tắc đã được ghi nhận tại khoản 1 Điều 14 Hiến pháp 2013: “Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” [42]. TTHS là hoạt động hướng tới việc bảo vệ pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng và nghiêm chỉnh thực thi trong thực tiễn cuộc sống. Nền tư pháp XHCN lấy mục tiêu phục vụ nhân dân là mục tiêu cao nhất. Hoạt động tư pháp suy cho cùng là vì con người, bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con người, tránh các hành vi xâm hại từ phía các cơ quan, tổ chức, cá nhân kể cả các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực thi công vụ gây ra.

Trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Toà án là nơi mà mọi người tìm đến lẽ phải, tìm đến công lý, Toà án cung cấp cho xã hội phương thức hữu hiệu để xác định sự thật và công bằng trong hành động của các chủ thể, vì thế TAND và VKSND cần tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động của mình. Cần khẳng định rằng bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân có trách nhiệm cực kỳ quan trọng của VKSND và hoạt động của Kiểm sát viên THQCT và KSXX tại phiên tòa. Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo” [42, Khoản 5 Điều 103]. Bộ luật TTHS năm 2015 quy định: “…Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa” [45, Điều 26]. Từ quy định của Hiến pháp và pháp luật TTHS khẳng định mô hình tố tụng hình sự ở Việt Nam không còn theo mô hình thẩm vấn truyền thống mà là theo hướng thẩm vấn kết hợp với tranh tụng, theo đó, các chứng cứ, tình tiết của vụ án được những người tham gia tố tụng trình bày khách quan tại phiên toà và trên cơ sở đó, HĐXX ra các phán quyết nhằm bảo đảm các phán quyết đó chính xác, khách quan, đúng luật.

Trong mô hình thẩm vấn kết hợp với tranh tụng, để xác định sự thật khách quan thì địa vị pháp lý, vai trò của các chủ thể tham gia tranh tụng nói chung, tranh luận nói riêng là hết sức quan trọng. Trong đó hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự nằm trong mục đích chung của giai

Xem tất cả 101 trang.

Ngày đăng: 25/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí