Những vấn đề pháp lý về sáng lập viên công ty cổ phần - 6

thực tế anh ra có quyền sáng tạo và tổ chức công ty; anh ta có quyền quyết định như thế nào, khi nào, theo dạng nào và dưới sự giám sát nào một công ty sẽ được thành lập và bắt đầu hoạt động như một công ty kinh doanh. Cũng chính anh ta là người lựa chọn các giám đốc của công ty, người mà anh ta trao quyền cho. Anh ta đặt ra các quy định của công ty, những quy định theo đó công ty có thể thấy nó bị ràng buộc bởi bất kỳ cái gì mà không bất hợp pháp do sáng lập viên công ty lựa chọn. Sự kiểm soát của sáng lập viên với công ty, mang tính tuyệt đối, liên quan tới một trách nhiệm, và từ trách nhiệm này phát sinh ra một học thuyết được biết đến là quan hệ ủy thác của sáng lập viên với công ty mà anh ta tạo ra.[7]

Nghĩa vụ ủy thác của sáng lập viên liên quan tới công ty, tới các cổ đông của công ty, tới những người đăng ký mua cổ phần của công ty nhưng không liên quan tới những người mua trái phiếu hoặc các chủ nợ của công ty.

Quan điểm này đã được khẳng định qua phán quyết của thẩm phán James LJ thụ lý vụ kiện New Sombrero Phosphate Co Ltd v. Erlanger:[10]

“Một sáng lập viên có mối quan hệ uỷ thác với công ty mà anh ta tạo dựng hoặc đưa ra lý do để tồn tại. Nếu người sáng lập viên đó có một tài sản mà anh ta muốn bán cho công ty, dễ dàng để anh ta làm như vậy, nhưng đối với anh ta cũng như bất kỳ người nào khác ở vị trí được uỷ thác, có phận sự thông báo đầy đủ và minh bạch các lợi ích và vị trí liên quan tới tài sản đó”.

Nhắc lại quan điểm này, thẩm phán Lindley đã tuyên bố trong vụ kiện Lagunas Nitrate co. v. Lagunas Syndicate (1899) như sau: “Nguyên tắc đầu tiên là theo lẽ công bằng các sáng lập viên công ty cổ phần chịu nghĩa vụ ủy thác với công ty và đối với những người mà họ giới thiệu để trở thành cổ đông của công ty, không thể ràng buộc công ty bằng bất kỳ hợp đồng nào với họ mà không công khai một cách công bằng và đầy đủ cho công ty về tất cả những thực tế mà công ty cần phải biết.”[2, 10]

* Những dấu hiệu để nhận biết tồn tại mối quan hệ ủy thác giữa một người với công ty dự định thành lập: Giữa sáng lập viên và công ty cổ phần dự định thành lập có mối quan hệ ủy thác, nhưng mối quan hệ đó bắt đầu khi công ty chưa tồn tại, mọi công việc liên quan đến công ty được thực hiện bởi các sáng lập viên, bởi vậy cần có những dấu hiệu nhất định để xác định xem có tồn tại mối quan hệ ủy thác giữa sáng lập viên và công ty hay không. Những dấu hiệu thường có của một mối quan hệ như vậy có thể được biết như dưới đây:

Một người hành động như một người đại diện, đại lý thông thường không phải là một sáng lập viên của công ty: Nghĩa là thuật ngữ sáng lập viên không áp dụng cho những người không tự đặt mình vào vị trí người được ủy thác đối với công ty cổ phần trong tương lai, những người chỉ hành động như những người đại diện của những người xúc tiến và thành lập công ty. Như vậy, những người như đại lý in ấn, đại lý quảng cáo, luật sư tư vấn được thuê bởi người lập dự án lập công ty để thực hiện những công việc mua bán thông thường, hoặc các dịch vụ chuyên nghiệp không phải là một sáng lập viên, cho dù công việc đó chỉ là do tình cờ hoặc bắt buộc phải có. Tuy hành vi của họ là hành vi tạo lập công ty, nhưng họ không có ý chí ràng buộc hay tạo lập một mối quan hệ nào với công ty tương lai, mong muốn của họ chỉ là một khoản thù lao thông thường sau khi hoàn thành công việc hoặc dịch vụ, nói cách khác giữa họ không có mối quan hệ ủy thác (fiduciary relation) như sáng lập viên với công ty.

Trong vụ kiện In re Great Wheat Polgooth Co. - 1883, một trong những sáng lập viên công ty cổ phần của công ty đã bán cho công ty một tài sản với giá 300.000 bảng trong khi nó chỉ được mua với gia 10.000 bảng. Luật sư của công ty đã tham gia vào việc thành lập công ty và làm thủ tục chuyển nhượng tài sản đó cho công ty. Bản cáo bạch của công ty do người này lập và gửi đi,

người này cũng chuẩn bị các thông tin công bố trên báo về công ty. Anh ta không có lợi ích gì từ công ty ngoại trừ quyền nhận thù lao cho công việc của anh ta. Điều này làm cho anh ta không phải là sáng lập viên của công ty. Thẩm phán xét xử vụ kiện đã tuyên bố: “Nghĩa vụ mà luật sư công ty đối với công ty không có gì liên quan đến hành vi sáng lập”. Liên quan đến việc bán tài sản cho công ty, thẩm phán cho rằng: “Anh ta có thể làm gì với điều đó? Anh ta không quản lý công ty. Anh ta đã không khuyên họ rằng tài sản đó không đánh giá đến mức mà họ dự định trả cho nó.” Và liên quan đến bản cáo bạch của công ty, thẩm phán nói: “Những người nộp đơn lấy bản cáo bạch ở nơi mà họ có thể lấy chúng, và nếu họ nộp đơn cho luật sư thì đó là công việc của anh ta với tư cách là luật sư của công ty, chứ không phải là một sáng lập viên của công ty, vì vậy mà anh ta phải có bản cáo bạch để đưa cho những người cần chúng.”[2]

Ngược lại, một đại diện, đại lý của công ty có thể trở thành sáng lập viên nếu họ tự tham gia vào việc thực công việc tạo lập công ty, họ tự ràng buộc mình vào mối quan hệ ủy thác . Việc ràng buộc này thể hiện qua ý chí của họ khi thực hiện một hoặc các hành vi sáng lập, họ thực hiện công việc không phải với mục đích chỉ nhận lại một khoản thù lao thông thường mà muốn một quan hệ lâu dài hơn với công ty đang được hình thành, muốn đi đến mục đích cuối cùng là tạo lập hoặc thúc đẩy công ty ra đời.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 95 trang tài liệu này.

Trong vụ kiện Lydney & Wigpool Iron Ore Co. v. Bird - 1886, một số mỏ thuê James Bird thành lập một công ty để mua than của họ. Bird thực hiện tất cả các công việc thành lập công ty cổ phần, đổi lại theo một thoả thuận ngầm giữa hai bên, Bird được trả một khoản hoa hồng từ số tiền mua hàng trị giá 100.000 bảng mà công ty trả cho các mỏ, khoản tiền được thanh toán sau khi công ty được thành lập. Công ty sau đó đã kiện Bird để đòi lại số tiền hoa hồng mà Bird đã nhận. Bird viện dẫn anh ta chỉ là đại diện của các nhà cung

cấp là các mỏ và khoản hoa hồng mà anh ta nhận chỉ là phí cho các dịch vụ mà anh ta thực hiện. Toà sơ thẩm đã cho rằng khoản hoa hồng mà Bird nhận được là từ tiền mua mà công ty đã trả cho các mỏ, công ty không trả phần nào trong đó và vì vậy Bird chỉ là đại diện của các nhà cung cấp, không phải là sáng lập viên của công ty. Tuy nhiên Toà phúc thẩm đã có cái nhìn khác, theo đó mặc dầu đại diện của các nhà cung cấp thành lập công ty, anh ta không chỉ hành động vì lợi ích của họ mà còn vì lợi ích của riêng anh ta bằng việc làm cho giá mà các mỏ đưa ra được công ty chấp thuận dễ dàng, vì vậy anh ta có thể nhận được hoa hồng từ tiền của công ty. Vì vậy, mặc dù khi thành lập công ty anh ta là đại diện của các nhà cung cấp nhưng anh ta không thể tránh khỏi nghĩa vụ đối với công ty gắn với vị trí mà anh ta đảm nhiệm với công ty. Anh ta vừa là đại diện của các nhà cung cấp vừa là sáng lập viên của công ty cổ phần được thành lập.[2]

Những vấn đề pháp lý về sáng lập viên công ty cổ phần - 6

Mặc dù hoa hồng hoặc thù lao của một đại diện được thuê để thành lập công ty có thể không đến trực tiếp hoặc gián tiếp từ công ty cổ phần, tức là thù lao cho anh ta đến từ một người khác không phải công ty, nhưng điều đó không có nghĩa rằng anh ta chỉ đơn thuần là một đại diện. Trên thực tế, anh ta cũng có thể là sáng lập viên của công ty. Nếu anh ta thành lập ra công ty và kiểm soát hoạt động của nó nhằm để nó mua tài sản hoặc thực hiện một số hợp đồng để chủ yếu đem lại lợi ích cho anh ta, thì khi đó anh ta bị ràng buộc nghĩa vụ uỷ thác với công ty và chịu trách nhiệm với việc vi phạm mối quan hệ sáng lập viên của công ty, kể cả khi việc vi phạm này do anh ta thực hiện vì người khác.

Đó là trường hợp khi sáng lập viên với tư cách đại diện của một người tiến hành thành lập công ty cổ phần và giữ quyền quản lý với công ty nhằm đảm bảo khả năng công ty sẽ mua tài sản từ người đó. Đổi lại sáng lập viên được hưởng hoa hồng từ tiền bán tài sản của người mà mình làm đại diện.

Tuy nhiên, sau khi đã bán được tài sản, người được đại diện đó từ chối không trả tiền hoa hồng như đã hứa thì các sáng lập viên cũng không thể đòi khoản hoa hồng này từ công ty như tiền thù lao cho các công việc mà họ đã thực hiện cho việc thành lập công ty. Rò ràng rằng tuy là sáng lập viên của công ty và có quyền được hưởng thù lao nhưng họ đã vi phạm vào mối quan hệ uỷ thác, hành động hoàn toàn vì người được uỷ thác là công ty sắp thành lập mà vì lợi ích của nhà cung cấp mà họ làm đại diện.[2]

Việc mua tài sản với ý chí mong muốn tài sản đó sẽ thuộc về công ty, đổi lại bằng một lợi ích khác từ công ty được thành lập, là một biểu hiện để đánh giá một người có phải là một sáng lập viên hay không. Vào thời điểm mua tài sản, công ty chưa được thành lập nên tài sản mà người đó mua sẽ thuộc quyền sở hữu của người mua trên thực tế. Nếu người đó bán tài sản không phải cho công ty (khi công ty được thành lập) mà bán nó cho một người khác thì không có câu chuyện của một sáng lập viên ở đây, cũng đồng nghĩa với việc không đặt ra vấn về nghĩa vụ tài sản của một sáng lập viên công ty cổ phần. Nhưng nếu người đó chiếm hữu tài sản với ý chí nó thuộc về công ty và sử dụng nó vào mục đích thành lập công ty thì đối với công ty người đó là một sáng lập viên, và những lợi ích của người đó nhận được trên tài sản sẽ có liên quan tới công ty được hình thành.

Một trường hợp khác là khi mua một tài sản, người mua là người đang dự định tham gia vào quá trình thành lập công ty cổ phần mới, tức là anh ta có ý tưởng thành lập công ty cùng một số người khác. Nếu anh ta thể hiện việc sẵn sàng bán tài sản này cho bất kỳ công ty dự định thành lập nào có ý định mua nó thì anh ta không phải là sáng lập viên của công ty. Người mua tài sản phục vụ cho công ty cổ phần dự định thành lập và mong muốn bán lại cho công ty khi nó ra đời sẽ là sáng lập viên của công ty. Nhưng nếu anh ta lại quyết định giữ tài sản và thực hiện các công việc để thành lập công ty và sẵn

sàng cho việc công ty mua lại tài sản đó của mình thì anh ta là sáng lập viên của công ty mới.

* Thẩm quyền xác nhận nghĩa vụ uỷ thác của sáng lập viên công ty cổ phần: Nghĩa vụ uỷ thác yêu cầu sáng lập viên hành động vì lợi ích của công ty. Tính trung thực, thiện chí của sáng lập viên khi thực hiện các giao dịch có liên quan đến công ty chỉ được công nhận bởi một ban giám đốc có đủ năng lực và tính độc lập để đưa ra quyết định. Chỉ khi một ban giám đốc như vậy công nhận và ủng hộ quyết định đầu tư, hợp đồng hay lợi ích mà sáng lập viên mang lại là hợp lý, đúng đắn thì anh ta được coi là không vi phạm nghĩa vụ uỷ thác.


2.2.2. Nghĩa vụ công khai thông tin

* Khái quát chung: Do bị ràng buộc với công ty bằng quan hệ ủy thác, sáng lập viên công ty cổ phần phải đảm bảo công khai thông tin cho tất cả những người đăng ký mua cổ phần của công ty về các quyền, nghĩa vụ mà công ty có thể liên quan. Bởi vậy nghĩa vụ công khai thông tin (disclosure duty) liên hệ mật thiết với nghĩa vụ uỷ thác, biểu hiện của nghĩa vụ trung thực tuyệt đối trong quan hệ ủy thác giữa sáng lập viên với công ty.

Vì là quan hệ uỷ thác, nghĩa vụ của sáng lập viên cũng tương tự như thành viên ban giám đốc nên sáng lập viên phải công bố tất cả các lợi ích hoặc tiền lời từ quá trình thành lập công ty. Khi có sự xung đột về lợi ích, để tránh vi phạm nghĩa vụ uỷ thác, sáng lập viên phải thông báo thông tin này tương tự như một thành viên ban giám đốc, ví dụ với các giao dịch bán tài sản riêng cho công ty. Nguyên tắc này được đúc kết trong tuyên bố của toà án trong vụ kiện Salomon v. Salomon & Co Ltd năm 1897, đó là: “Cung cấp việc thông báo phù hợp đầy đủ nhằm làm rò rằng một sáng lập viên có khả năng tạo ra một lợi nhuận, nghiêm cấm một lợi nhuận bí mật”.[10]

Quy định về công khai thông tin yêu cầu một bản thông báo của các sáng lập viên về bất kỳ lợi ích mà họ có thể có trong giao dịch với công ty. Do thực hiện hai vai trò – sáng lập viên của công ty cổ phần và người có liên quan đến các hợp đồng mua bán tài sản với công ty – lợi ích có thể xung đột với nghĩa vụ, bởi vậy họ phải công khai nó và chỉ rò các tính chất của các lợi ích này. Nếu các sáng lập viên bán hoặc tạo ra việc bán tài sản mà họ mua cho công ty cổ phần, hoặc khi họ yêu cầu một lợi ích bằng việc mua tài sản nhằm mục đích bán lại cho công ty, họ phải công khai cái mà họ đã trả tiền để mua, bởi lợi nhuận của việc mua này phụ thuộc vào công ty, trừ khi công ty chấp thuận với lợi ích mà họ mang lại nếu không họ phải tự thanh toán tài sản đã mua hoặc phải hoàn trả những lợi ích mà anh ta không công bố một cách phù hợp.

* Yêu cầu về việc công bố thông tin

Một sáng lập viên không bị cấm thu lợi ích từ việc tham gia các thoản thuận nhân danh công ty khi công ty chưa được thành lập. Tuy nhiên anh ta bị cấm thu các lợi ích bí mật, việc quyết định một lợi ích nào là lợi ích bí mật được toà án xem xét căn cứ trên những cơ sở nhất định như đã nêu ở trên. Những lợi ích mà sáng lập viên có thể thu được từ việc thành lập một công ty bao gồm lợi nhuận từ các hợp đồng với công ty và các khoản thù lao và quà tặng của công ty hoặc của bên thứ ba.[2]

Công bố lợi nhuận thu được do các hợp đồng với công ty: Một người bán cho công ty cổ phần anh ta thành lập tài sản đã mua khi đang là sáng lập viên, và vào thời điểm mua mục đích của anh ta là nó sẽ thuộc về công ty sau này, có phải công khai phần lợi ích và giá của tài sản mà anh đã mua. Khi mua người đó đang trong mối quan hệ uỷ thác với công ty dự định thành lập, cũng như ở vị trí một đại diện mua hàng cho công ty nên anh ta bị ràng buộc bởi nghĩa vụ trung thực và thực hiện giao dịch mua tài sản một cách có lợi cho

công ty. Anh ta không được vì lợi ích cá nhân mà làm ảnh hưởng đến niềm tin công ty đã giao phó cho anh ta. Trong trường hợp nhờ vị trí của mình anh ta biết những người mà anh ta đại diện muốn mua một tài sản, anh ta không được dùng sự hiểu biết đó để kiếm lời từ chi phí của người được đại diện bỏ ra, và nếu anh ta mua tài sản đó để bán lại cho người được đại diện thì anh ta sẽ không được giữa các khoản lợi nhuận mà anh ta có được từ đó nếu không công khai cho người được đại diện. “Nếu một người được giới thiệu như là đại diện cho một người khác để mua tài sản, dù mua ở bất kỳ giá nào thì anh ta phải cũng phải chuyển lại nó với giá đó cho người được đai diện, và anh ta không thể tính thêm tiền cho tài sản mua với giá thấp hơn bằng cách giả vờ bán cho người được đại diện cái mà thực chất anh ta mua cho người được đại diện.” - tuyên bố của thẩm phán Cotton LJ trong vụ kiện Ladywell Mining Co. v. Brook - 1887.

Công bố về các khoản hoa hồng và quà tặng: Các sáng lập viên công ty cổ phần trong mọi trường hợp có trách nhiệm giải trình với công ty về những lợi ích anh ta nhận được khi bán tài sản cho công ty như đại diện của một nhà cung cấp của công ty. Thông thường sáng lập viên được nhận khoản tiền chênh lệch do đại diện công ty dự định thành lập mua tài sản từ các nhà cung cấp nếu làm cho công ty mua tài sản với giá cao hơn giá thị trường của tài sản. Bởi vậy lợi ích cá nhân của sáng lập viên sẽ mâu thuẫn rất lớn với lợi ích của công ty. Trong trường hợp này, sáng lập viên phải công khai và được chấp thuần về các khoản tiền nhận được, nếu không họ sẽ phải nộp lại cho công ty. Theo quan điểm của các luật gia Anh thì các nhà cung cấp có thể trả tiền cho sáng lập viên khi họ hành động như

Xem tất cả 95 trang.

Ngày đăng: 22/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí