Làng Nghề Ở Quảng Nam Và Vai Trò Của Tín Dụng Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Đối Với Sự Phát Triển Làng Nghề

- Đi vay vốn.

Ngoài nguồn vốn tự huy động, hoạt động TD của NHNo&PTNT còn có thể thông qua việc đi vay trên thị trường liên NH, vay các tổ chức tài chính, tổ chức TD khác hoặc vay NH trung ương. Vay vốn trên thị trường liên NH chủ yếu được sử dụng để đáp ứng nhu cầu thanh khoản, các khoản vay liên NH thường có thời hạn là qua đêm, vài ngày hoặc có thể dài hơn nhưng là vay ngắn hạn. Ngoài ra, trong thực tế, có những tổ chức tài chính, chẳng hạn các công ty bảo hiểm, quỹ bảo hiểm... cũng có những khoản vốn tạm thời nhàn rỗi chưa có kế hoạch sử dụng, do đó, các NHNo&PTNT có thể đi vay các nguồn vốn này.

Các NHNo&PTNT còn có thể đi vay tái chiết khấu và đi vay tái cấp vốn tại NH trung ương. Thời hạn vay vốn cụ thể phụ thuộc vào những yếu tố như điều kiện của NH đi vay, tình hình kinh tế - xã hội, tình hình thực hiện chính sách tiền tệ, mục đích sử dụng vốn vay...nhưng thường cũng là ngắn hạn. Ngoài ra, NHNo&PTNT cũng có thể vay NH trung ương với thời hạn rất ngắn để giải quyết khó khăn tạm thời trong hoạt động thanh toán, hoặc trong một số trường hợp nó còn có thể vay vốn của NH trung ương để cho vay một số đối tượng cần thiết theo chương trình phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo yêu cầu của Chính phủ.

- Tăng vốn tự có.

Vốn tự có bao gồm vốn điều lệ và quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ. Vốn điều lệ là nguồn tiền được đóng góp bởi những chủ NH, còn quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ là nguồn tiền được hình thành bằng việc trích lập từ lợi nhuận hàng năm. Vốn tự có của NHNo&PTNT có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tuy chỉ chiếm một tỷ lệ tương đối nhỏ trong tổng nguồn vốn hoạt động, nhưng nó lại thực hiện những chức năng không thể thay thế được, chẳng hạn như việc cung cấp nền tảng cho sự tăng trưởng và mở rộng NH, giúp NH chống lại rủi ro, duy trì niềm tin của công chúng và của các cổ đông vào khả năng phát triển của mình.

Vốn tự có của NHNo&PTNT là một nguồn lực có ý nghĩa sống còn đối với việc duy trì các hoạt động hàng ngày và bảo đảm cho NH phát triển lâu dài. Quy mô vốn tự có quyết định quy mô huy động vốn, đi vay, quy mô tài sản có và một số hoạt động khác của NH. Vì thế mà một trong những vấn đề đáng quan tâm nhất của NHNo&PTNT là việc thường xuyên phải duy trì được lượng vốn tự có ở mức hợp lý. Về nguyên tắc,

NHNo&PTNT có thể tăng vốn tự có bằng cách tăng thêm vốn góp của các chủ sở hữu, phát hành cổ phiếu, phát hành giấy nợ thứ cấp có khả năng chuyển đổi và nâng cao năng lực tự tích luỹ từ lợi nhuận của NH. Mặt khác, chính sự hoạt động có hiệu quả của NHNo&PTNT cũng góp phần làm tăng thêm vốn, tức là phần giá trị thị trường của các cổ phiếu vượt quá mệnh giá của nó và đó cũng là cách thức quan trọng làm tăng vốn tự có thực của NH.

Các hoạt động thu hút vốn nêu trên làm hình thành một vế trong bảng cân đối tài sản của NHNo&PTNT, đó là tài khoản nợ và vốn.

Hai là, cấp tín dụng:

Đây là chức năng cơ bản nhất của NHNo&PTNT, là các giao dịch về tài sản giữa các bên cho vay là NH với bên đi vay là các tổ chức kinh tế, xã hội và dân cư trong khu vực nông thôn. Trong đó, bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. NHNo&PTNT chủ yếu cấp TD cho các tổ chức kinh tế và hộ trong các ngành nông nghiệp và khu vực nông thôn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

Cấp TD là nguồn sinh lợi lớn nhất của NHNo&PTNT, nhưng cũng là nơi có nhiều rủi ro nhất. Một NHNo&PTNT gặp khó khăn về tài chính thường phát sinh từ các khoản cho vay khó đòi, mà nguyên nhân của nó là do quản lý kém, cho vay không tuân thủ đúng nguyên tắc TD, chính sách cho vay không hợp lý và tình trạng suy thoái ngoài dự kiến của ngành kinh tế nông nghiệp và các ngành kinh tế khác thuộc khu vực nông thôn.

Nếu nhìn từ góc độ các hình thái giá trị và các hoạt động nghiệp vụ cụ thể của TD, Luật các tổ chức TD của Việt Nam (sửa đổi) có giải thích: "Hoạt động đầu tư là việc tổ chức TD sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp TD" và "Cấp TD là việc tổ chức TD thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh NH và các nghiệp vụ khác" [21, tr.105-106].

Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với việc phát triển làng nghề tại tỉnh Quảng Nam - 3

- Cho vay bằng tiền

Đây là nghiệp vụ chủ yếu của hoạt động TD của NHNo&PTNT. Nó bao gồm nhiều loại, có thể theo các căn cứ:

Một là, căn cứ vào mục đích vay vốn của khách hàng, có 5 nhóm:

Cho vay kinh doanh (còn gọi là cho vay công nghiệp và thương mại) nhằm cung cấp vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và các hộ gia đình ở nông thôn. Hỗ trợ vốn cho nông dân trang trải các chi phí trong sản xuất nông nghiệp;

Cho vay cá nhân và hộ gia đình nhằm tài trợ tiêu dùng;

Cho vay kinh doanh bất động sản ở nông thôn là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản;

Cho vay đối với các tổ chức tài chính, tổ chức TD khác ở nông thôn; Cho vay khác.

Phân loại như trên có tác dụng giúp NHNo&PTNT thiết lập danh mục cho vay hướng về khách hàng (thị trường) cho phù hợp với mục tiêu phục vụ của NH này, giúp NH có thể nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay bằng cách chuyên môn hoá cung ứng các sản phẩm cho vay theo mục đích sử dụng vốn của khách hàng. Ngược lại, khách hàng cũng dễ dàng hơn trong việc tiếp cận các nguồn vốn TD. Đồng thời, nó cũng là cơ sở để đưa ra những giới hạn an toàn trong hoạt động TD và là một phần quan trọng trong việc xác định chiến lược cho vay có tính cạnh tranh của một NHTM nói chung.

Hai là, căn cứ vào thời hạn cho vay và theo quy định hiện hành của Nhà nước, hoạt động cho vay có thể chia thành 3 loại: cho vay ngắn hạn (dài nhất là 12 tháng), cho vay trung hạn (từ 1- 5 năm), và cho vay dài hạn (thời hạn trên 5 năm). Cách phân loại này có ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Dựa vào đó, NH có thể xác định được cơ cấu thời hạn cho vay, cân đối kỳ hạn hoàn vốn và kỳ hạn hoàn trả, nâng cao hiệu quả quản trị tài sản có và tài sản nợ của NH, đặc biệt trong việc quản lý khe hở kỳ hạn, khe hở lãi suất và khả năng thanh khoản để phòng tránh rủi ro.

Ba là, căn cứ vào tính chất bảo đảm của khoản vốn vay, có thể chia làm 2 loại: cho vay có đảm bảo bằng tài sản (khách hàng phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba), và cho vay không có bảo đảm bằng tài sản (cho vay dựa vào tín nhiệm của NH đối với khách hàng). Bảo đảm tiền vay là biện pháp nhằm nâng cao chất lượng cho vay và hạn chế rủi ro TD cho NH. Về hình thức, cho vay có bảo đảm bằng tài sản có mức độ rủi ro ít hơn so với cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, nhưng thực tế không hoàn toàn như vậy. Điều này thường thấy khi các NH tuyệt đối hoá vai trò của tài sản bảo đảm, coi nhẹ các điều kiện TD khác. Trong những trường hợp này, NH còn có thể bị mất đi những khách hàng tốt. Điều này có nghĩa là, cho vay có bảo đảm bằng tài

sản là cần thiết, nhưng không thể coi đó là điều kiện tiên quyết khi cho vay. Xét về hiệu quả kinh tế, nếu cho vay không có bảo đảm về tài sản được mở rộng, thì đó là tín hiệu tốt và thể hiện triển vọng của nền kinh tế (tất nhiên là phải có những khách hàng đủ điều kiện, có uy tín). Hiện nay, trong khu vực nông nghiệp và nông thôn, tình trạng khách hàng thiếu tài sản bảo đảm khi vay vốn là phổ biến. Điều này đã làm cho hoạt động TD của NH gặp nhiều khó khăn. Cần có những giải pháp hợp lý và dài hạn nhằm khắc phục có hiệu quả tình trạng này.

Bốn là, căn cứ vào cách thức cho vay, có hai loại: cho vay trực tiếp và cho vay gián tiếp. Cho vay trực tiếp là việc NH cấp vốn trực tiếp cho người đi vay và người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ cho NH. Đây là hình thức cho vay chủ yếu và có tính truyền thống của NHNo&PTNT. Nó có thể thực hiện bằng nhiều phương thức như cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức TD, cho vay theo dự án đầu tư, cho vay hợp vốn, cho vay trả góp, cho vay theo hạn mức TD dự phòng, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành thẻ TD...

Cho vay gián tiếp là việc NH mua lại các chứng từ có giá, khế ước nợ hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Đây là hình thức NH tái cấp vốn cho những người đi vay thông qua chiết khấu thương phiếu, mua các hợp đồng bán trả góp, mua các khoản nợ của DN.

Cách phân loại này tạo điều kiện cho NH có thể chuyên môn hoá kỹ thuật, nghiệp vụ và cấp TD, từ đó có thể nâng cao hiệu quả cấp TD bằng sự chuyên sâu và những kỹ năng đã được chuyên môn hoá.

Năm là, căn cứ vào quy mô các khách hàng đi vay, có thể phân chia thành ba loại: cho vay khách hàng là doanh nghiệp lớn, cho vay khách hàng là doanh nghiệp nhỏ, và cho vay khách hàng là hộ gia đình và cá nhân ở nông thôn. Việc phân loại này thường dựa vào quy mô vốn và tài sản của chủ đi vay. Nó giúp cho NHNo&PTNT có chính sách và cơ chế TD phù hợp và là cơ sở để đưa ra những cải cách trong quản lý TD theo quan điểm hướng về khách hàng.

Ngoài những cách phân loại cho vay trên, còn có những cách phân loại khác như theo mục đích và yêu cầu của quản lý TD. Ví dụ, phân loại cho vay theo cơ cấu kinh tế, có cho vay ngành kinh tế, vùng kinh tế hoặc cho vay theo tính chất sở hữu của khách hàng.

Việc phân loại cho vay nói trên có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, nó là căn cứ để NHNo&PTNT xây dựng chính sách hợp lý, nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay, đồng thời đó là cơ sở để hình thành chiến lược kinh doanh có tính cạnh tranh và mang đặc trưng riêng của NHNo&PTNT Việt Nam.

- Cho vay bằng hàng hoá:

Đây là hình thức giao dịch TD được thực hiện bằng hàng hoá cụ thể. Hàng hoá của loại TD này thường là cho thuê tài chính. Theo cách này, NH cấp TD trực tiếp bằng hàng hoá cho người đi vay (gọi là người đi thuê), người vay phải hoàn trả nợ cho NH bao gồm cả gốc và lãi. Theo quy định của Luật tổ chức TD, thì "cho thuê tài chính" là hoạt động TD trung hạn và dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài chính giữa bên cho thuê là tổ chức TD với khách hàng thuê" [21, tr.106].

Cho thuê tài chính là một phương thức tài trợ vốn quan trọng cho các tổ chức kinh tế không chỉ ở các nước phát triển mà ngày nay đã được triển khai rộng rãi ở các nước đang phát triển. Nó mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế nói chung, nông nghiệp và nông thôn nói riêng. Nó tạo điều kiện cho người đi thuê có được cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết ngay trong điều kiện nguồn vốn của họ còn ít không thể đáp ứng trong việc mua được những tài sản này; đồng thời đây cũng là cách phân tán rủi ro - một cơ chế đặc thù của kinh doanh hiện đại. Nó cũng tạo cơ hội cho bên cho thuê trong việc quản lý và kiểm soát tài sản nhằm mục đích an toàn TD, tránh được tình trạng sử dụng vốn không đúng mục đích, hạn chế rủi ro. Hình thức này thường được thực hiện thông qua các công ty cho thuê tài chính. Tuy nhiên, NHNo&PTNT có thể hình thành những bộ phận loại này để phục vụ cho phát triển kinh tế nông nghiệp và khu vực nông thôn theo hướng đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, đó là nhiệm vụ hàng đầu hiện nay ở nước ta.

- Bảo lãnh NH:

Đây là một nghiệp vụ TD mà NHNo&PTNT cấp cho khách hàng trên cơ sở uy tín của mình. Với nghiệp vụ này, NH không phải cung cấp tiền hay hàng, nhưng khi người được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng thì người bảo lãnh phải thay thế dể thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Vì vậy, bảo lãnh của NH còn được gọi là TD chữ ký. Hình thức TD này đã được ghi trong Luật các tổ chức TD của nước ta.

Hình thức này được sử dụng khá phổ biến trong các giao dịch thương mại. Nó có hai chức năng chủ yếu: 1) là công cụ bảo đảm đối với người hưởng thụ bằng việc cam kết

thực hiện nghĩa vụ đối với người hưởng thụ khi xảy ra sự vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh, nó giúp cho các giao dịch về hàng hoá được thực hiện một cách thuận lợi.

2) là công cụ tài rợ về tài chính cho người được bảo lãnh. Thông qua hình thức này mà người được bảo lãnh không phải xuất quỹ mà được vay nợ, trả chậm tiền hàng hoá, dịch vụ, chậm nộp thuế... nghĩa là mặc dù không trực tiếp cấp vốn, nhưng bảo lãnh NH đã giúp cho khách hàng được hưởng những lợi ích tài chính như khi được NH cho vay. Đây là một trong những hoạt động cho vay có nhiều tác dụng, bởi nó đáp ứng những nhu cầu đa dạng của các hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ nông dân và người lao động ở khu vực nông thôn và tạo thuận lợi cho các chủ thể trong các giao dịch kinh tế.

Năm là, đầu tư chứng khoán

Đây là hoạt động kinh doanh quan trọng của NHNo&PTNT. Trong hoạt động này, NH cung ứng vốn cho các chủ kinh tế (tài trợ vốn) thông qua hoạt động mua chứng khoán. Nó có thể đầu tư chứng khoán bằng cách mua các loại trái phiếu chính phủ, công trái, trái phiếu đô thị, tín phiếu kho bạc, trái phiếu doanh nghiệp hay các loại chứng khoán khác.

Mục đích của dầu tư chứng khoán là để sinh lợi, tăng vường khả năng thanh khoản, hỗ trợ cho các hoạt động TD và đa dạng hoá hoạt động kinh doanh để phân tán rủi ro. Các chứng khoán đều mang lại thu nhập cho người sở hữu chúng. Nhờ hoạt động này, NHNo&PTNT có thể chủ động dùng nguồn vốn của mình để lựa chọn mua loại nào cho thích hợp và có hiệu quả. Trong các danh mục đầu tư chứng khoán, thì tín phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ là những chứng khoán được các NHTM nói chung ưa chuộng nhất, bởi tính an toàn cao và nó là loại "lỏng" nhất, có thể được mua bán hoặc chuyển đổi thành tiền một cách dễ dàng với chi phí giao dịch thấp.

Đầu tư chứng khoán là một hướng quan trọng trong đa dạng danh mục tài sản có sinh lợi của một NHTM, tạo điều kiện phân tán rủi ro, không bị phụ thuộc quá lớn vào hoạt động TD. Tuy khả năng linh hoạt trong điều chỉnh danh mục đầu tư chứng khoán là tốt hơn so với danh mục TD, nhưng nếu tuyệt đối hoá vai trò của khoản đầu tư này thì NHNo&PTNT không còn đúng nghĩa với tên gọi của nó.

1.2. làng nghề ở quảng nam và Vai trò của tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đối với sự phát triển làng nghề


Nam

1.2.1. Làng nghề và nhu cầu về vốn cho phát triển các làng nghề ở Quảng


1.2.1.1. Làng nghề và đặc điểm của làng nghề

- Làng nghề:

Làng là một phạm trù dùng để chỉ một khối dân cư ở nông thôn làm thành một

đơn vị có đời sống riêng về nhiều mặt, và là đơn vị hành chính thấp nhất thời phong kiến [29, tr.522]. Làng ở Việt Nam đã xuất hiện từ thời Hùng Vương. Nó được hình thành trên cơ sở những công xã nông thôn, trong đó mỗi công xã gồm một số gia đình, có một tinh thần cộng đồng, cộng cảm, sống quây quần trong một khu vực địa lý nhất định. Sự tập trung đó là do nghề trồng lúa nước (đã có ở nước ta vào khoảng thế kỷ thứ VII TCN) phải thường xuyên chống thiên tai mà công việc này một gia đình không thể đảm đương được, cần có sự liên kết của cộng đồng, gắn bó với nhau và cùng chung sống chết.

Lúc đầu, nguồn sống cơ bản của người dân trong các làng là sản phẩm nông nghiệp. Quá trình phát triển của lực lượng sản xuất làm cho sản xuất nông nghiệp có của dư thừa, làm ra đời kinh tế hàng hoá. Dần dần trong làng có những người làm nghề buôn bán, rồi có những người chế tác công cụ lao động, sản xuất đồ mộc, đan lát đồ dùng, nuôi tằm, kéo tơ, dệt vải...tức là chuyển sang sản xuất thủ công. Trong thời kỳ đầu, sản xuất công nghiệp chỉ ở quy mô gia đình và bị phụ thuộc kinh tế tự nhiên giống như cách mô tả của V.I. Lênin: "ở đây, nghề thủ công với nông nghiệp chỉ là một mà thôi" [15, tr.411-412]. Theo đà phát triển của lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội và kinh tế hàng hoá, những người sản làm nghề thủ công vốn coi công việc của mình là một nghề phụ trong nghề nông chuyển sang thành một nghề độc lập. Tuy họ đã rời bỏ sản xuất nông nghiệp, nhưng vẫn gắn chặt với làng quê, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và sống bằng nghề thủ công nghiệp. Bên cạnh những người này, trong làng vẫn có những người làm nông nghiệp kiêm thợ thủ công. Trong quá trình phát triển, số người trong làng chuyển hẳn sang sản xuất các mặt hàng thủ công dần tăng lên, có đội ngũ thợ, có quy trình công nghệ, quy mô sản xuất hàng thủ công tăng lên đến một mức độ nhất định làm cho làng làng thuần nông chuyển biến thành các làng nghề.

Làng nghề là một khái niệm chứa đựng hai bộ phận cấu thành là "làng" và "nghề". Đến nay, ở nước ta có một số quan niệm khác nhau về làng nghề. Chẳng hạn, theo giáo sư Trần Quốc Vượng, "làng nghề là làng tuy vẫn trồng trọt theo lối tiểu nông và

chăn nuôi nhỏ, cũng có một số nghề phụ khác, song đã nổi trội một số nghề cổ truyền tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp. có phường, có ông trùm, có phó cả... cùng một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định "sinh ư nghệ, tử ư nghệ", "nhất nghệ tinh, nhất thân vinh", sống chủ yếu được bằng nghề đó và sản xuất ra các mặt hàng thủ công" [30, tr.27].

Đây là quan niệm tuy đúng với làng nghề truyền thống, nhưng lại không thích hợp với các làng nghề nói chung và càng không phải là làng nghệ mới được đi vào hoạt động. Nếu cho rằng phát triển làng nghề phải có nghề cổ truyền nổi trội, tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp thì ngày nay rất khó có được một loại làng nghề như vậy.

Một quan niệm khác cho rằng, "làng nghề là những làng đã có từ 50 hộ hoặc từ 1/3 tổng số hộ hay lao động của địa phương trở lên làm nghề chiếm phần chủ yếu trong tổng thu nhập của họ trong năm" [8, tr.15]. Còn trong Dự thảo Nghị định của Chính phủ về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đệ trình tháng 5/2005, thì "làng nghề là thôn, ấp, bản có trên 35% số hộ hoặc lao động tham gia hoạt động ngành nghề nông thôn và thu nhập từ ngành nghề nông thôn chiểm trên 50% tổng thu nhập của làng".

Các định nghĩa trên đã khắc phục được nhước điểm của quan niệm thứ nhất, quan tâm dến phải có tỷ lệ người làm nghề và thu nhập từ ngành nghề, nhưng lại cố định tiêu chí xác định làng nghề và việc cố định những tiêu chí trong khái niệm sẽ làm cho các nhà hoạch định chính sách khó xử lý khi chế độ ưu đãi đối với làng nghề đã thay đổi thì phải chăng khái niệm cũng thay đổi.

Quan niệm thứ tư của TS Dương Bá Phượng, "làng nghề là làng ở nông thôn có một (hay một số) nghề thủ công tách khỏi nông nghiệp và kinh doanh độc lập" [20, tr.13- 14]. Quan niệm này đã nêu được hai yếu tố cơ bản cấu thành của làng nghề là làng nghề, nêu được vấn đề nghề trong làng tách ra khỏi nông nghiệp và kinh doanh độc lập, nên phù hợp với điều kiện mới hơn, tránh được hạn chế của quan niệm thứ hai, nhưng vẫn mắc phải hạn chế của quan niệm thứ nhất.

Theo tác giả, có thể hiểu đơn giản làng nghề là làng có hoạt động thủ công nghiệp. Song, không phải bất cứ quy mô nào của nghề cũng đều được gọi làng đó là làng nghề. Làng được gọi là làng nghề khi các hoạt động thủ công nghiệp đủ lớn ở mức độ

Xem tất cả 105 trang.

Ngày đăng: 15/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí