Nghĩa Vụ Đối Với Các Hợp Đồng Tiền Công Ty

là đại diện cho nhà cung cấp. Nhưng vì người đại diện này cũng là người được uỷ thác của công ty dự định thành lập nên anh ta không thể giữ lại khoản tiền của người đã tín nhiệm anh ta nếu công ty cảm thấy khoản tiền mà anh ta có được là từ một giao dịch không công bằng cho công ty. Ngài thẩm phán George Jessel đã nói về một sáng lập viên trong vụ kiện của Pearson - 1877, người đã giữ bí mật khoản tiền từ việc xúc tiến thành lập công ty như sau: “Anh ta có thể được phép nói trước Toà án của Lẽ công bằng rằng nhận một món quà là một phần của số tiền mua, khi đang biết rằng mình ở vị trí của một đại diện và một người được uỷ thác của người mua liệu anh ta có thể giữ món quà lại trái với ý muốn của người mua?”

Việc công bố thông tin theo những các thức phù hợp là cơ sở để toàn án quyết định hiệu lực của việc công bố thông tin. của các sáng lập viên với công ty cổ phần mới. Việc công bố này phải được thực hiện với những chủ thể phù hợp và tuân theo những nguyên tắc nhất định.[2, 10]

Công bố thông tin trước một ban giám đốc độc lập và có thẩm quyền: Việc công bố thông tin phải được thực hiện một cách đúng đắn trước một ban giám đốc có thể đưa ra quyết định sáng suốt và độc lập về các giao dịch.

Điều này được chỉ ra trong vụ kiện New Sombrero Phosphate Co Ltd v. Erlanger -1878 [10]. Nội dung vụ kiện liên quan đến việc một tổ hợp công ty đã mua quyền thuê một hòn đảo cùng với quyền khai thác quặng photphat tại đây. Sau đó một công ty – công ty New Sombrero Phosphate được thành lập và quyền thuê đất cũng như quyền khai thác được bán lại cho công ty này với giá gấp đôi giá thị trường. Tổ hợp công ty đã lựa chọn ban giám đốc đầu tiên của công ty mới, các thành viên được lựa chọn hành động đơn giản chỉ như là

người được đề cử của tổ hợp công ty và thực hiện việc chấp nhận cũng như thông qua hợp đồng mua này. Theo quan điểm của Ngài O’Hagan, cách hành xử của họ là đúng với cái có thể trông đợi từ cách thức lựa chọn họ. Trong những hoàn cảnh này, Hội đồng thẩm phán đặt hợp đồng sang một bên. Vấn đề tranh cãi là ở chỗ tổ hợp công ty đã thất bại trong việc thực hiện nghĩa vụ sáng lập viên với công ty là phải đề cử một ban giám đốc độc lập và công bố thông tin một cách đầy đủ về thực tế họ là nhà cung cấp tài sản cho công ty. Ngài thẩm phán Cairns của Hội đồng thẩm phán đã tuyên bố về vụ kiện này như sau: “Tôi không cho rằng chủ sở hữu tài sản có thể không xúc tiến và thành lập một công ty cổ phần, và sau đó bán tài sản của mình cho công ty, nhưng tôi cho rằng nếu anh ta làm vậy, anh ta bị ràng buộc việc quan tâm đến cái anh ta bán cho công ty thông qua sự đánh giá của một ban giám đốc, những người có thể thực thi một phán quyết độc lập và sáng suốt về giao dịch, và những người không tin rằng tài sản thuộc về sáng lập viên mà thuộc về một số người khác.”

Tuy vậy việc công bố thông tin và đề nghị sự chấp thuận của ban giám đốc với các giao dịch mua bán tài sản của công ty chỉ áp dụng trong trường hợp công ty cổ phần được thành lập với dự định mời các nhà đầu tư bên ngoài đăng ký mua cổ phần của công ty (và cũng có thể rất hạn chế với các trường hợp như vậy). Điều này không thể áp dụng cho đa phần các công ty do một thương nhân hoặc do các thành viên hợp danh của một hợp danh (nhóm sáng lập viên) thành lập và những người này cũng trở thành các giám đốc đầu tiên của công ty, và đây cũng là trường hợp phổ biến trong thành lập công ty

cổ phần. Bởi vậy một sự công bố thông tin phù hợp sẽ phải được thực hiện với những người được mời trở thành cổ đông của công ty. Trong vụ kiện Salomon v. A.Salomon - 1897 do ngài Thẩm phán Davey đưa ra phán quyết [10], ở các phiên xử cấp dưới các toà đã có quan điểm bất lợi khi cho rằng việc bán hoạt động kinh doanh với giá quá cao cho công ty của Salomon là không phù hợp, người rò ràng là sáng lập viên của công ty. Nhưng tại Hội đồng thẩm phán, lời buộc tội rằng việc bán hoạt động kinh doanh cho công ty của Salomon đã không tuân thủ nguyên tắc đưa ra trong vụ kiện Erlanger (xem lại vụ kiện New Sombrero Phosphate Co Ltd v. Erlanger -1878) đã bị bác bỏ, vì tất cả hoàn cảnh của việc bán đã được biết bởi tất cả các cổ đông. Vì vậy việc công bố thông tin của sáng lập viên vẫn là đúng đắn khi được công bố cho tất cả các cổ đông của công ty, thay vì cho ban giám đốc của công ty, và như vậy không có trách nhiệm pháp lý ràng buộc sáng lập viên trong trường hợp này.

Với các công ty cổ phần một chủ hoặc các công ty cổ phần gia đình, việc công bố thông tin của sáng lập viên được coi là phù hợp khi được sự chấp thuận của người chủ hoặc các cổ đông trong gia đình, điều này không khó cho sáng lập viên. Tuy nhiên với các công ty cổ phần có bán cổ phần ra bên ngoài thì vấn đề này khó khăn hơn nhiều. Trong vụ kiện Lagunas Nitrate Co v Lagunas Syndicate – 1899 [10], Toà thượng thẩm đã tuyên bố việc công bố thông tin về giao dịch bằng một bản cáo bạch phát hành đại chúng cũng là hợp lệ. Nghĩa là việc công bố một cách phù hợp với các cổ đông của công ty (bao gồm cả các cổ đông dự kiến) được thể hiện dưới dạng một bản cáo bạch theo quy định mà nhờ đó người mua biết đích xác

lợi ích của sáng lập viên là gì. Trường hợp này xảy ra khi Ban giám đốc không đảm bảo được các yêu cầu của trường hợp đầu tiên, khi đó cổ đông sẽ là người có quyền quyết định để đảm bảo tính công bằng. Thông thường quy định này được quy định trong điều lệ đầu tiên của công ty cổ phần, yêu cầu sáng lập viên phải công bố tất cả các giao dịch và các lợi ích thu được từ các giao dịch này.

Tuy nhiên việc công bố với cổ đông cũng có những hạn chế nhất định bởi sau khi công ty được thành lập, sáng lập viên phải công bố ngay các thông tin về các giao dịch đã thực hiện với các cổ đông, nhưng với các công ty đại chúng, nếu cổ phiếu chưa được bán hết, chỉ những người đã mua mới biết, những người mua sau sẽ không biết; hoặc với các công ty cổ phần đóng, tuy không phát hành cổ phiếu nhưng những người mua lại cổ phần về sau cũng không biết được thông tin. Như vậy không đảm bảo nguyên tắc công khai và không đảm bảo quyền lợi của tất cả chủ thể liên quan trong trường hợp này.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 95 trang tài liệu này.

Như trong vụ kiện In re British Seamless Paper Box Co. [2], một công ty được thành lập với số vốn điều lệ là 50.000 bảng, các bằng sáng chế và máy móc được chuyển nhượng cho công ty chuyển thành cổ phần có giá trị 32.000 bảng. Các nhà cung cấp đã chuyển nhượng số lượng cổ phần này cho các giám đốc của công ty. Các nhà cung cấp và các giám đốc, cũng là các sáng lập viên của công ty và cũng là người chấp thuận cho các giao dịch đó là tất các cổ đông của công ty vào thời điểm đó. Họ không phát hành bản cáo bạch, cũng không mời người khác mua cổ phần và cũng không có ý định nhận thêm bất kỳ cổ đông nào. Sau đó công ty cần thêm vốn đã phát hành thên cổ phần và bán cho bên thứ ba. Khi công ty làm ăn thất

bại. Những cổ đông về sau này đã kiện ban giám đốc cũ vì đã không công bố các thông tin về số cổ phần đã được phân chia ban đầu. Toà án đã phán quyết rằng những người này không thể kêu gọi các giám đốc thanh toán số cổ phần mà họ đã nhận từ các nhà cung cấp.

Những vấn đề pháp lý về sáng lập viên công ty cổ phần - 7

Áp dụng nguyên tắc Ultra vires trong việc công bố thông tin của sáng lập viên: Đối với sáng lập viên là cá nhân có thể áp dụng nguyên tắc Ultra vires - vượt quá khả năng - theo đó sáng lập viên công ty cổ phần là cá nhân có thể công khai thông tin với nỗ lực để tất cả các cổ đông đều biết và chấp nhận giao dịch, chứ không đòi hỏi tất cả đều có thể biết bởi điều đó là vượt quá khả năng của sáng lập viên. Khi đó việc công bố thông tin vẫn được coi là có hiệu lực và sáng lập viên không phải chịu trách nhiệm pháp lý nếu toà án xem xét thấy người này đã thực hiện việc công bố thông tin một cách phù hợp và với nỗ lực hết sức. Nguyên tắc này không được áp dụng khi sáng lập viên công ty cổ phần là một tổ chức vì tổ chức hoàn toàn có khả năng và các công cụ cần thiết để đáp ứng được yêu cầu này nên không thể coi là vượt quá khả năng.

Cũng có trường hợp các giao dịch và lợi ích mà sáng lập viên nhận được từ các giao dịch này dù đã được công bố đến tất cả các cổ đông, ban giám đốc và nhận được sự đồng thuận của họ nhưng sự công bố thông tin này vẫn là vô hiệu. Quy định này có từ án lệ vụ kiện Mann v. Edinburgh Northen Tramways Co. [2] trong đó công ty Tramways được thành lập theo một Luật riêng của Nghị viện nhằm giới thiệu hệ thống đường ray xe lửa tại Edinburgh và tham gia vào một hợp đồng với công ty cổ phần tên là Cable Corporation để xây dựng tuyến đường sắt của công ty với giá trị là 93.000 bảng, công ty Cable chịu trách nhiệm chi trả các chi phí theo Luật của Nghị viện. Mann và Beattie nhân danh công ty Tramway để thực hiện hợp đồng với công ty Cable, nhưng mặt khác những người này cũng lại có một thoả thuận với công ty

Cable là nhân danh công ty này để thanh toán các chi phí theo Luật của Quốc hội, 17.000 bảng trong 93.000 bảng theo hợp đồng xây dựng được trả cho Mann và Beattie để làm công việc đó. Thực tế số tiền mà những người này chi trả cho các chi phí không đáng kể và họ nhận lấy phần lớn số tiền còn lại trong 17.000 bảng. Trong khi đó Luật của nghị viện quy định chỉ được dùng vốn, tài sản của công ty Tramways để dùng cho việc xây dựng đường sắt, các sáng lập viên không có quyền nhận thêm bất kỳ một khoản tiền nào từ vốn của công ty. Hội đồng thẩm phán đã phán quyết rằng Mann và Beattie phải trả lại số tiền mà họ đã nhận được cho công ty, kể cả khi giao dịch của họ đã được biết bởi tất cả ban giám đốc, các cổ đông và công ty Cable, cũng như được sự chấp thuận của ban giám đốc. Bởi lẽ không ai trong số họ có đủ thẩm quyền cho phép các bị đơn được hưởng các lợi ích từ phần vốn của công ty, đó được gọi là sự vượt quá khả năng của công ty.

Trong trường hợp này, công ty (bao gồm tất cả các cổ đông, ban giám đốc) không có thẩm quyền cho phép các giao dịch và lợi ích của sáng lập viên bởi nó có một quyền lực cao hơn kiểm soát nó chính là Nghị viện. Công ty nếu thực hiện vượt quá thẩm quyền mà nghị viện trao cho nó thì việc công bố thông tin dù là phù hợp nhưng cũng không có hiệu lực. Điều này thường xảy ra khi công ty cổ phần được thành lập là công ty áp dụng theo các Luật riêng của Nghị viện tại Anh.


2.2.3. Nghĩa vụ đối với các hợp đồng tiền công ty

Hợp đồng tiền công ty là hợp đồng được lập nhân danh công ty trước khi công ty được thành lập trên thực tế. Theo quan điểm của các luật gia, mối quan hệ của công ty với các hợp đồng này có những đặc điểm sau: (1) Hợp đồng không thể ràng buộc công ty vì khi xác lập hợp đồng công ty chưa có năng lực pháp lý; (2) Công ty không thể phê chuẩn hợp đồng vì khi hợp đồng

được xác lập công ty chưa tồn tại; và (3) Công ty không thể kiện hoặc bị kiện bởi hợp đồng.

Thông thường một sáng lập viên công ty cổ phần sẽ tham gia vào các hợp đồng trước khi công ty được thành lập vì sẽ cần có các cơ sở vật chất cần thiết sẵn sàng cho việc kinh doanh của công ty, các hợp đồng này được gọi là các hợp đồng tiền công ty (pre-incorporation contract). Khi tham gia vào các hợp đồng này, các sáng lập viên cố gắng tham gia với tư cách nhân danh công ty dự định thành lập nhằm đảm hợp đồng trước khi công ty thành lập hoặc để xác nhận hợp đồng cho công ty trước khi các chi phí cho việc thành lập công ty phát sinh. Các sáng lập viên thường không có mục đích chịu trách nhiệm cá nhân về các hợp đồng tiền công ty.

Trong một số trường hợp, sáng lập viên có thể được cảnh báo, được biết về việc công ty cổ phần có thể không được thành lập còn bên thứ ba ký hợp đồng với sáng lập viên không biết về điều này. Trong một số trường hợp khác, có thể cả sáng lập viên và bên thứ ba ký hợp đồng cùng không biết về việc công ty không được thành lập. Một số trường hợp khác thì công ty không bao giờ được thành lập. Nếu công ty được thành lập thì có thể công ty chấp nhận các hợp đồng do sáng lập viên ký trước đó nhân danh công ty, nhưng cũng có thể công ty không chấp nhận các hợp đồng này. Bên thứ ba vì vậy trở thành bên yếu thế và bị thiệt hại trong các hợp đồng tiền công ty nếu sáng lập viên được miễn trừ trách nhiệm cá nhân với hợp đồng đã ký, mà công ty cổ phần không tiếp nhận hoặc không thể tiếp nhận .

* Quan điểm pháp lý về nghĩa vụ của sáng lập viên công ty cổ phần với các hợp đồng tiền công ty

Nhìn chung, pháp luật về công ty của Anh không thừa nhận hợp đồng giữa công ty chưa hình thành với bên thứ ba vì các luật gia cho rằng: Hợp đồng có hiệu lực phải được xác lập giữa hai bên đang tồn tại và có năng lực

pháp luật vào thời điểm hợp đồng được xác lập. Các quyền và nghĩa vụ của hợp đồng đã ký không thể chuyển giao bởi một bên trong hợp đồng, là sáng lập viên, cho công ty vốn không có năng lực pháp lý vào thời điểm hợp đồng được lập bởi sáng lập viên. Để hợp đồng được thực hiện hoặc có hiệu lực với công ty, phải có bằng chứng về sự chuyển đổi người thụ trái cho công ty sau khi thành lập. Sự chuyển đổi người thụ trái khác với việc chấp thuận hợp đồng ở chỗ một hợp đồng mới được lập với cùng các điều khoản nhưng là giữa công ty và bên thứ ba. Tuy nhiên, các toà án sẽ không dễ dàng trong việc thừa nhận rằng đã có sự chuyển đổi người thụ trái và tuyên bố rằng, việc thanh toán chi phí bởi công ty trên cơ sở một niềm tin sai lầm rằng hợp đồng có hiệu lực, nếu có, là không đúng.

Theo quan điểm của các luật gia người Anh, các sáng lập viên công ty cổ phần phải chịu trách nhiệm cá nhân với tất cả các hợp đồng trước khi công ty được đăng ký thành lập. Điều này được tuyên bố trong vụ kiện Kelner v. Baxter năm 1866. Nguyên đơn và bị đơn đều là sáng lập viên của công ty Gravesend Royal Alexandra Hotel Company, Limited. Nguyên đơn là quản lý của khách sạn trong công ty mới. Trước khi công ty được thành lập nguyên đơn đã đề nghị bán một kho rượu cho công ty dự định thành lập với giá 900 bảng và đã được chấp nhận bởi bị đơn vào ngày 27/1/1866 nhân danh công ty Gravesend Royal Alexandra Hotel Company, Limited. Vào ngày 1/2/1866 ban giám đốc của công ty đã công nhận thoả thuận này. Tuy nhiên các sáng lập viên đã không nhận được giấy đăng ký thành lập công ty Gravesend cho đến tận ngày 20/2/1866. Các giám đốc sau đó đã chấp thuận lại hợp đồng vào ngày 11/4/1866 vài ngày trước khi công ty đăng ký phá sản.[6]

Toà án đã tuyên bố rằng việc công nhận hợp đồng vào ngày 1/2/1866 không có hiệu lực vì công ty chưa tồn tại vào thời điểm đó. Việc công nhận vào ngày 11/4/1866 cũng không có hiệu lực vì theo yêu cầu việc công nhận

Xem tất cả 95 trang.

Ngày đăng: 22/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí