Đặc Điểm Của Ngành Gtvt Và Dnnn Trong Ngành Gtvt Ảnh Hưởng Đến Cổ Phần Hoá Và Sau Cổ Phần Hoá


khi luận án nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và trong khu vực. Những nghiên cứu đó đS được đúc kết thành những bài học kinh nghiệm, cùng với các vấn đề lý luận đS trở thành cơ sở khoa học cho các nghiên cứu thực trạng cổ phần hoá và giải quyết các vấn đề sau cổ phần hoá trong các DNNN ngành giao thông vận tải ở Việt Nam ở chương 2.


Chương 2


Thực trạng cổ phần hoá và sau cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước trong ngành giao thông vận tải ở Việt Nam


2.1. Đặc điểm của ngành gtvt và dnnn trong ngành gtvt ảnh hưởng đến cổ phần hoá và sau cổ phần hoá

2.1.1. Đặc điểm của ngành giao thông vận tải Việt Nam ảnh hưởng đến cổ

phần hoá và sau cổ phần hoá.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 229 trang tài liệu này.

Ngành giao thông vận tải có lịch sử hình thành lâu đời, nhưng được phát triển đồng bộ trong những năm là thuộc địa của Pháp. Sự phát triển của ngành GTVT có những đặc điểm đặc thù gắn với từng giai đoạn phát triển sau:

- Dưới thời Pháp thuộc, hoạt động của ngành GTVT do chính quyền thuộc địa điều hành. Với quan điểm: đẩy mạnh mở mang xây dựng các công trình giao thông công chính tự nó sẽ đẩy nhanh nhịp độ trao đổi, tăng lưu thông các sản phẩm. Người Pháp đS tập trung nguồn lực, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào xây dựng phát triển hệ thống giao thông vận tải kể cả đường biển,

Những vấn đề lý luận và thực tiễn sau cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước trong ngành giao thông vận tải ở Việt Nam lấy ví dụ trong ngành giao thông vận tải - 9

đường bộ, đường sắt và hàng không.

Vì vậy, những năm đầu thế kỷ XX nước ta có hệ thống giao thông khá hoàn chỉnh với hệ thống cảng sông biển ở cả 3 miền, hệ thống đường bộ,

đường sắt nối liền Bắc - Trung - Nam, nối liền các tỉnh với tổng chiều dài

30.000 km đường bộ, 2.590 km đường sắt; hệ thống sân bay nối Hà Nội với Sài Gòn, với Hải Phòng, Điện Biên Phủ, các tỉnh miền Trung và Nam Bộ.

- Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), ngành giao thông vận tải có bước phát triển về chất, với sự ra đời của Bộ Giao thông công chính và các Sở giao thông công chính ở các địa phương, Sở (hoặc Ty) vận tải, Nha giao thông công chính, hoả xa… Các tổ chức trên đS tích cực xây dựng phát


triển ngành để phục vụ kháng chiến một cách thiết thực, làm tròn nhiệm vụ

đối với cuộc kháng chiến chống Pháp. Tuy nhiên, trong thời kỳ Pháp chiếm lại Thủ đô và các tỉnh hệ thống giao thông rút lên chiến khu, bộ máy các tỉnh tạm chiếm bị phá vỡ.

- Sau hòa bình lập lại, ngành giao thông vận tải có nhiệm vụ khôi phục phát triển kinh tế và chống chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc đồng thời chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam. Nhiệm vụ đó

đS đòi hỏi ngành giao thông vận tải nhanh chóng tiếp quản, thành lập bộ máy quản lý theo ngành chuyên môn hoá hẹp như Tổng cục đường sắt (13/5/1955), Nha giao thông công chính (năm 1955). Thành lập Bộ GTVT và Bưu điện, đến năm 1961, bưu điện tách ra khỏi GTVT, thành 2 bộ riêng. Bộ GTVT trở thành bộ độc lập cho đến ngày nay với 15 nhiệm vụ chính, theo 7 lĩnh vực hoạt động: vận tải đường sắt; đường bộ; đường thuỷ; cơ khí vận tải; xây dựng sửa chữa cầu đường; cung ứng vật tư giao thông; đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu và quản lý kỹ thuật.

- Trong những năm chống Mỹ, ngành GTVT đS tập trung xây dựng hệ thống giao thông huyết mạch để vận chuyển lương thực, vũ khí đạn dược… chi viện cho miền Nam và phục vụ cho sản xuất ở miền Bắc. Việc xây dựng mở tuyến đường Trường Sơn, tuyến đường trên biển và đảm bảo cho chúng hoạt động có hiệu quả trong điều kiện bom đạn hết sức ác liệt là điều thần kỳ của ngành GTVT Việt Nam, góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

- Sau giải phóng miền Nam, cả nước tập trung vào khôi phục và xây dựng kinh tế, ngành GTVT đS có bước phát triển về chất, nhất là từ khi chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Hệ thống cơ sở vật chất của ngành GTVT đS có sự phát triển vượt bậc trong tất cả các ngành, tạo điều kiện giao lưu kinh tế thuận lợi giữa các vùng, miền và giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và quốc tế. Cụ thể:


+ Về giao thông đường bộ:

Năm 1993 chính phủ ra nghị định 07/chính phủ về thành lập Cục Đường bộ Việt Nam, là cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành về GTVT đường bộ trên cả nước, tổ chức gồm 4 khu quản lý đường bộ, 10 công ty vận tải ôtô và 2 nhà máy đại tu, sửa chữa ôtô.

Bộ GTVT có chủ trương tìm mọi cách huy động nhiều nguồn vốn để củng cố và xây dựng phát triển ngành GTVT. Ngoài vốn đầu tư của nhà nước cho ngành còn có vốn vay tín dụng của nhà nước, vốn của địa phương, nguồn vốn

đóng góp của các đơn vị sản xuất, vốn tự có của các xí nghiệp, vốn vay và vốn

đầu tư của nước ngoài do liên doanh, liên kết... Bộ GTVT đS tận dụng khai thác các nguồn vốn để tập trung xây dựng một số công trình về cầu, đường trọng

điểm, các trục đường chính. Về tổ chức vận tải Bộ thành lập Liên hiệp các xí nghiệp vận tải ôtô trực thuộc Bộ, sản xuất kinh doanh chuyên ngành vận tải

ôtô. Liên hiệp các xí nghiệp vận tải ôtô được tổ chức và sắp xếp lại các đơn vị trực thuộc theo tuyến và vùng lSnh thổ, được chia ra thành 12 đơn vị vận tải ôtô và nhà máy sửa chữa trên toàn quốc. Ngoài lực lượng vận tải quốc doanh còn có lực lượng vận tải hợp tác xS cả nước có chừng gần 3.000 hợp tác xS vận tải.

Hệ thống đường bộ được đầu tư mỗi năm từ 6.500 tỷ đồng đến 7.800 tỷ

đồng nên ngày càng được cải thiện: Đường quốc lộ được mở rộng và nâng cấp tạo điều kiện giao lưu thông thoáng và nhanh chóng; các tuyến đường liên tỉnh, huyện, đặc biệt là giao thông liên xS đS được nhựa hoá và bê tông hoá. Số xS chưa có đường ô tô đến xS chỉ còn rất ít.

+ Về giao thông đường sắt:

Năm 1976, bên cạnh hệ thống giao thông đường sắt ở phía Bắc được nâng cấp, tuyến đường sắt Bắc- Nam dài hơn 1.000 km đS được nối lại, cả nước có một hệ thống đường sắt liên tục nối với nhau do Tổng cục đường sắt trực thuộc Bộ GTVT quản lý.


Năm 1989 Bộ GTVT và Bưu điện đS ký quyết định thành lập 3 xí nghiệp Liên hiệp vận tải đường sắt khu vực I, II, III trực thuộc Tổng cục đường sắt. Liên hiệp I quản lý các tuyến đường sắt phía Bắc đến Đồng Hới. Liên hiệp II quản lý từ Đồng Hới tới Diêu Trì. Liên hiệp III quản lý từ Diêu trì trở vào. Năm 1990, Bộ GTVT lại quyết định chuyển Tổng cục đường sắt thành Liên hiệp đường sắt Việt Nam trực thuộc Bộ GTVT. Từ năm 2003 đến nay chuyển thành Tổng công ty Đường sắt Việt Nam

Ngành GTVT đS có những đầu tư lớn cho khôi phục và xây dựng các cơ sở vật chất của ngành đường sắt. Vì vậy, hệ thống đường sắt đS được nối liền Bắc Nam. Tiến trình rút ngắn lịch trình chạy tàu đS đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ: Từ lịch trình Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh là 48 giờ nay đS rút xuống còn 29 giờ.

+ Về giao thông đường biển:

Tiếp thu quan điểm đổi mới của Đảng, ngành đường biển đS đẩy mạnh quá trình đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế và cơ cấu tổ chức. Từ 1975 đến 1990 cơ cấu tổ chức của ngành vẫn là Tổng cục, Liên hiệp hàng hải Việt Nam trực thuộc Bộ GTVT. Các đơn vị sản xuất kinh doanh trong liên hiệp và các xí nghiệp thành viên do Liên hiệp hàng hải quản lý, điều hành theo kế hoạch của Bộ GTVT. Liên hiệp Hàng Hải được Bộ uỷ quyền tham mưu giúp Bộ thực hiện một số nhiệm vụ quản lý chuyên ngành trong cả nước.

Để khắc phục những tồn tại, yếu kém về phát triển kinh tế biển mà Bộ chính trị đS chỉ ra, ngành hàng hải đS đề ra kế hoạch thực hiện với các biện pháp đồng bộ để xây dựng, phát triển hệ thống cảng, đội tàu, dịch vụ hàng hải, tổ chức một cách hợp lý việc quản lý các cảng biển, phân biệt rõ giữa quản lý về mặt nhà nước với hoạt động kinh doanh của các hSng vận tải biển, phát triển các đội tàu viễn dương và cận hải. Năm 1995 chính phủ đS có quyết định 91/chính phủ thành lập Tổng công ty hàng hải Việt Nam là một trong 18 Tổng công ty mạnh của nhà nước. Tổng công ty hàng hải quản lý các doanh nghiệp vận tải biển là: Vosco, Vitranchart, Vinaship, Falcon, Công ty CP Hàng hải


Đông Đô, Công ty vận tải Thuỷ Bắc và Tổng công ty Hàng hải còn quản lý một số cảng chính như Hải Phòng, Sài Gòn, Đà Nẵng, Cần Thơ. Còn lại các cảng khác và các đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp công ích do Cục hàng hải quản lý.

Hoạt động vận tải đường thuỷ đS từ chỗ là con số không đS có sự phát triển vượt bậc với sự ra đời và phát triển của Tổng công ty Hàng hải Việt Nam, của hàng loạt các xí nghiệp vận tải biển có tên tuổi và thương hiệu mạnh như Vosco, Vitranchart…

+ Về giao thông vận tải đường sông:

Cùng với sự đổi mới của cả nước và toàn ngành GTVT, ngành đường sông cũng có sự chuyển biến rõ rệt trong tiến trình phát triển của mình. Đứng trước sự thay đổi to lớn của nền kinh tế vốn từ cơ chế quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường. Về tổ chức của ngành đS tiến hành sắp xếp lại như sau:

Thành lập Cục đường sông trực thuộc Bộ GTVT, Cục có nhiệm vụ thay mặt Bộ để quản lý về nhà nước chuyên ngành đường sông. Dưới Cục là các trạm hoa tiêu, kho quản lý đường sông cảng, các đơn vị sự nghiệp, công ích.

Phía Bắc, Bộ đS thành lập một Tổng công ty vận tải đường sông và phía Nam một Tổng công ty vận tải đường sông trực thuộc Bộ GTVT cũng đS được thành lập. Dưới các Tổng công ty là các CTCP vận tải đường sông chuyên về sản xuất kinh doanh vận tải đường sông cảng và sửa chữa, đóng mới các phương tiện thuỷ nội địa. Tổng công ty đường sông phía Bắc có 7 đơn vị vận tải sông, 5 cảng sông. Tổng công ty đường sông phía Nam có 9 đơn vị và 3 công ty liên doanh với nước ngoài.

2.1.2. Đặc điểm của các DNNN trong ngành GTVT Việt Nam ảnh hưởng

đến cổ phần hoá và sau cổ phần hoá

Các DNNN trong ngành giao thông vận tải một mặt có những đặc điểm chung của các DNNN trong nền kinh tế, mặt khác nó có những đặc điểm riêng


do tính chất hoạt động kinh doanh của ngành chi phối. Những đặc điểm riêng đó sẽ tác động đến các doanh nghiệp cả trong và sau cổ phần hoá.

*Những đặc điểm chung của các DNNN được thể hiện trong các DNNN ngành giao thông vận tải.

Phần lớn các đặc điểm đó được thể hiện ở những nội dung về tổ chức và quản lý của các DNNN. Vì vậy, các DNNN trong ngành giao thông vận tải bên cạnh những sự cần thiết khách quan phải duy trì, còn có những khiếm khuyết từ mô hình kinh tế nhà nước như: tổ chức sản xuất kinh doanh không hiệu quả, tính chủ động trong kinh doanh kém, quản lý còn gây nhiều lSng phí, tệ nạn tham nhũng…. Đó cũng là những lý do dẫn đến cần thiết phải cổ phần hoá các DNNN của ngành.

*Những đặc điểm riêng của các DNNN ngành giao thông vận tải.

Phần lớn các đặc điểm này thể hiện ở tính hấp dẫn của các doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hoá. Đó là:

- Tính đa dạng trong các hoạt động của ngành giao thông vận tải. Tương ứng với mỗi hoạt động đó, mức độ sinh lợi có khác nhau. Ngoài ra, trạng thái cụ thể của từng doanh nghiệp ngành giao thông vận tải (được xem xét như những

điều kiện kinh tế xS hội của các doanh nghiệp này) như làm ăn có lSi hay không có lSi, trạng thái tiền vốn, máy móc thiết bị cũng là những nhân tố tác

động trực tiếp đến quá trình cổ phần hoá và sau cổ phần hoá các DNNN trong ngành giao thông vận tải.

Về tính đa dạng trong các hoạt động của ngành giao thông vận tải: Ngành giao thông vận tải có rất nhiều loại hình vận tải. Đó là: Vận tải đường thuỷ, vận tải đường bộ, vận tải đường sắt và vận tải hàng không.

Trong mỗi loại hình vận tải lại chia thành các loại hình cụ thể, như vận tải thuỷ có vận tải sông và vận tải biển, trong vận tải biển lại có vận tải viễn dương và vận tải biển trong nước… Đối với vận tải bộ có vận tải nội tỉnh, vận tải liên tỉnh và vận tải liên vận quốc tế.


Đối với mỗi loại hình vận tải chia theo đối tượng vận tải có vận tải hành khách và vận tải hàng hoá. Bên cạnh các hoạt động mang tính vận tải là các hoạt động phục vụ và bổ trợ. Đó là các hoạt động xây dựng các cơ sở vật chất cho ngành như các công ty xây dựng và bảo dưỡng đường bộ, các liên hiệp xây dựng và bảo dưỡng đường sắt. Các doanh nghiệp phục vụ như cụm cảng

đối với hàng không và vận tải thuỷ, các bến xe, nhà ga đối với vận tải bộ và vận tải đường sắt…Trong mỗi loại hình vận tải, bên cạnh các nhân tố nội tại của đặc điểm ngành còn có những nhân tố ngoại cảnh. Những nhân tố này cũng tác động đến hoạt động vận tải và theo đó cũng tác động trực tiếp đến quá trình cổ phần hoá và sau cổ phần hoá các DNNN của ngành.

Tính đến 31/12/2005 cả nước có 3.204 doanh nghiệp hoạt động chuyên ngành GTVT trong tổng số 62.908 doanh nghiệp, chiếm 5,1%, trong đó vận tải bộ có 1.755 doanh nghiệp chiếm 54,78% các doanh nghiệp GTVT, vận tải thuỷ có 438 doanh nghiệp chiếm 13,67%, vận tải hàng không có 4, các hoạt

động phụ trợ cho vận tải 1.007 doanh nghiệp chiếm 31,14% [ 10, 89-90]. Xét theo loại hình doanh nghiệp có các DNNN, doanh nghiệp ngoài nhà nước (tư nhân, công ty cổ phần, các hợp tác xS vận tải…). Những thành tựu của ngành GTVT trong những năm đổi mới có sự đóng góp to lớn và trực tiếp của các doanh nghiệp trong ngành, trước hết là các DNNN. Tuy nhiên, do thành lập tràn lan, do tác động của cơ chế thị trường nhiều doanh nghiệp trong ngành GTVT hoạt động không hiệu quả, kể cả các doanh nghiệp nhà nước.

Xét về DNNN: Các DNNN trong ngành giao thông vận tải Việt Nam có quá trình hình thành và phát triển chung cùng với ngành giao thông vận tải cả nước. Những năm trước đây, ngành giao thông vận tải có hệ thống DNNN khá hùng hậu, do ngành giao thông vận tải quản lý.

ë cấp địa phương có các công ty vận tải đường bộ, đường sông, các công ty bảo dưỡng đường bộ, các công ty cơ khí vận tải (công ty trung tu ôtô, công ty sản xuất phụ tùng…). Trong những năm đổi mới một số doanh nghiệp của các địa phương đS được cổ phần hoá. Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp

Xem tất cả 229 trang.

Ngày đăng: 05/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí