Phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên
Nông sản chịu tác động lớn từ các điều kiện tự nhiên, đặc biệt là các điều kiện về đất đai, khí hậu và thời tiết. Đa phần các nông sản đều rất nhạy cảm với các nhân tố ngoại cảnh. Do vậy, mọi sự thay đổi về điều kiện tự nhiên đều tác động trực tiếp đến sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi, cây trồng sinh trưởng và phát triển bình thường, cho sản lượng thu hoạch cao, chất lượng tốt. Ngược lại, nếu điều kiện tự nhiên không thuận lợi như: nắng nóng hoặc giá rét kéo dài gây hạn hán hoặc bão lụt… sẽ gây sụt giảm về năng suất và sản lượng cây trồng.
Chất lượng nông sản ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người tiêu dùng
Chất lượng nông sản luôn là tiêu chí đầu tiên được người tiêu dùng quan tâm khi quyết định mua hàng. Tại các quốc gia phát triển, đối với hoạt động nhập khẩu nông sản, ngày càng có nhiều yêu cầu khắt khe đặt ra về chất lượng, vệ sinh ATTP, kiểm dịch, xuất xứ,…của loại hàng hóa này. Nguyên nhân chính là do chất lượng của nông sản sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người sử dụng. Vì vậy, khi đời sống người dân được nâng lên thì chất lượng nông sản cũng cần được cải thiện tương ứng.
Sản phẩm có tính tươi sống
Nông sản có đặc tính tươi sống nên khó bảo quản được trong thời gian dài. Ngoài ra, nhân tố thời vụ của nông sản dẫn đến tính không phù hợp giữa sản xuất và tiêu dùng, cho nên cần quan tâm đến khâu chế biến và bảo quản cho tốt đặc biệt với nông sản xuất khẩu. Bên cạnh đó, nông sản dễ bị hư hỏng, ẩm mốc, biến chất,… do đó chỉ cần để một thời gian ngắn trong môi trường không bảo đảm về độ ẩm, nhiệt độ... là nông sản sẽ bị hư hỏng, giảm chất lượng.
Sản phẩm có tính đa dạng
Nông sản có đặc điểm đa dạng cả về chủng loại và chất lượng. Bởi vì nông sản được sản xuất ra từ các địa phương khác nhau, với các nhân tố về địa lý, tự nhiên khác nhau, mỗi vùng, mỗi hộ, mỗi trang trại có phương thức sản xuất khác nhau với các giống nông sản khác nhau cho nên chủng loại cũng khác nhau. Đây
Có thể bạn quan tâm!
- Chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường EU - 1
- Chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường EU - 2
- Phân Loại Chính Sách Thúc Đẩy Xuất Khẩu Nông Sản
- Nhóm Chính Sách Tác Động Tới Tiêu Thụ Nông Sản Xuất Khẩu
- Tính Đáp Ứng Yêu Cầu Của Đối Tượng Chính Sách
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
cũng là nguyên nhân làm cho chất lượng nông sản không có tính đồng đều, do đó vấn đề quản lý chất lượng nông sản thường gặp nhiều khó khăn.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của xuất khẩu nông sản
1.1.2.1. Khái niệm về xuất khẩu và xuất khẩu nông sản
Theo Giáo trình Kinh tế ngoại thương, “Xuất khẩu là việc bán hàng hóa, dịch vụ cho nước ngoài” [tr.9]. Theo Điều 28 Luật Thương mại (năm 2006), xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.
Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh với phạm vi vượt ra khỏi biên giới quốc gia hoặc là hoạt động buôn bán của một nước với nước khác trên phạm vi quốc tế (Nguyễn Văn Tuấn, Trần Hòe, 2008). Đây không phải là hành vi mua bán đơn lẻ mà là cả hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức cả bên trong lẫn bên ngoài nhằm thúc đẩy hàng hóa phát triển ổn định đem lại lợi ích cho quốc gia.
Xuất khẩu hàng hóa là hoạt động đưa hàng hóa (vật chất và dịch vụ) ra khỏi một nước (từ quốc gia này sang quốc gia khác) để bán trên cơ sở dùng tiền làm phương tiện thanh toán hoặc trao đổi lấy một hàng hóa khác có giá trị tương đương. Một cách khái quát có thể hiểu, xuất khẩu là việc đưa hàng hóa ra nước ngoài nhằm thực hiện giá trị sử dụng và giá trị của hàng hóa.
Theo Luật Thương mại về hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam, hoạt động xuất khẩu hàng hóa là hoạt động bán hàng của thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài theo hợp đồng mua bán hàng hóa, bao gồm cả hoạt động tạm nhập tái xuất và chuyển khẩu hàng hóa.
Như vậy, xuất khẩu là một phạm trù kinh tế phản ánh hoạt động trao đổi, bán hàng hóa của một quốc gia với phần còn lại của thế giới. Có thể hiểu một các giản đơn thì xuất khẩu là những hoạt động cụ thể trong trao đổi, bán hàng hóa của các chủ thể kinh tế trong nước với các đối tác nước ngoài.
Từ khái niệm chung về xuất khẩu có thể đưa ra khái niệm xuất khẩu nông sản (XKNS) như sau: XKNS là một loại xuất khẩu hàng hóa, đó là việc bán hàng nông sản cho nước ngoài nhằm đạt được các lợi ích kinh tế, xã hội.
Theo đó, chủ thể của hoạt động XKNS là các doanh nghiệp XKNS. Đây là những doanh nghiệp được đăng ký kinh doanh hàng nông sản theo quy định của pháp luật, có thể trực tiếp hoặc gián tiếp, thực hiện hoạt động bán hàng nông sản ra nước ngoài. Đối tượng của XKNS là hàng nông sản, có thể được sản xuất, chế biến trong nước hoặc mua để xuất khẩu (như tạm nhập, tái xuất).
Khác với hoạt động thương mại nội địa, hoạt động xuất khẩu và XKNS gắn với thị trường ngoài nước có phạm vi rộng lớn, có nhiều yếu tố ảnh hưởng như nhu cầu, văn hóa, thói quen, lối sống. Trong thế giới hội nhập ngày nay, các quốc gia đều quan tâm đến chính sách khuyến khích xuất khẩu bởi nhiều mục đích, như: mở rộng thị trường ngoài nước trong khi thị trường trong nước đang có xu hướng không tăng trưởng; xuất khẩu thu được ngoại tệ để bù đắp khoản ngoại tệ cho nhập khẩu; và các mục tiêu tiếp nhận các văn minh của nước nhập khẩu cho doanh nghiệp và người tiêu dùng…
1.1.2.2. Đặc điểm của xuất khẩu nông sản
Một là, đối tượng xuất khẩu là hàng nông sản. Ở Việt Nam, hàng nông sản là sản phẩm từ trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng, và từ hoạt động khai thác, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, các sản phẩm nghề muối. Đó là những sản phẩm trực tiếp do sản xuất nông nghiệp tạo ra có thể nằm dưới dạng thô hoặc ở dạng sơ chế. NSXK là một loại hàng hoá xuất khẩu, được bán trên thị trường ngoài nước. Vì vậy, nó cần phải đáp ứng được các nhu cầu của nước nhập khẩu và người tiêu dùng tại nước nhập khẩu về các chỉ số dinh dưỡng, an toàn thực phẩm, an toàn kỹ thuật, môi trường. Nông sản chủ yếu là các hàng tiêu dùng thiết yếu, việc XKNS chịu sự kiểm soát ngặt nghèo về chất lượng, đặc biệt là vệ sinh an toàn thực phẩm. Đồng thời, hàng nông sản có đặc điểm là cầu nhìn chung ít co giãn, do đó, việc quản lý nhà nước đối với XKNS phải hướng tới việc ổn định cung.
Hai là, chủ thể của XKNS (hay còn gọi là người bán) là doanh nghiệp kinh doanh XKNS. Các thương lái và người nông dân của nước sở tại là các trung gian trong quá trình XKNS. Nếu tổ chức không tốt dễ dẫn đến tranh giành, cạnh tranh không lành mạnh, bán phá giá.
Ba là, người bán và người mua hàng NSXK là những người sống ở các nước khác nhau, có phong tục, tập quán và những nhu cầu khác nhau đối với tiêu dùng hàng nông sản.
Bốn là, xem xét hoạt động XKNS theo chuỗi giá trị. Từ sản xuất đến xuất khẩu, hàng nông sản phải trải qua ba khâu chính: sản xuất nông sản (thuộc lĩnh vực sản xuất nông nghiệp), thu mua, sơ chế/chế biến và bảo quản nông sản (thuộc lĩnh vực sản xuất công nghiệp - dịch vụ), và cuối cùng là xuất khẩu nông sản (thuộc lĩnh vực thương mại). Các khâu này đều liên quan và ảnh hưởng lẫn nhau. Mỗi một khâu trong quá trình này đều có những đặc điểm riêng biệt. Xuất khẩu (tiêu thụ) là khâu cuối cùng trong chuỗi giá trị của hàng nông sản. Đây là khâu thu được nhiều lợi nhuận nhất trong chuỗi. Hoạt động XKNS tuân theo sự điều tiết của thị trường và được tiến hành trên cơ sở tự do, bình đẳng theo giá cả thị trường. Trong quản lý nhà nước, cần điều tiết lợi ích giữa các khâu, phối hợp giữa các bộ ngành để nâng cao giá trị gia tăng của nông sản.
Năm là, hoạt động XKNS có nhiều nước tham gia. Mỗi nước có thể thực hiện tất cả các khâu trong chuỗi giá trị hàng NSXK, từ sản xuất, chế biến, đến XKNS, hoặc chỉ tham gia khâu chế biến và XKNS tùy thuộc vào khả năng và điều kiện của từng nước. Các nước có lợi thế trong hoạt động XKNS không phụ thuộc vào việc nước đó đã XKNS nhiều năm hay không. Điều quan trọng để giành được lợi thế cạnh tranh phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: chất lượng, thương hiệu, thông tin thị trường hàng NSXK…
Sáu là, trong hội nhập quốc tế, hoạt động XKNS phụ thuộc nhiều hơn vào thị trường thế giới. Việc ký kết các Hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương về cơ bản mang lại những tác động tích cực cho hoạt động XKNS. Ngoài ra, các thay đổi về cung cầu hàng nông sản, về chính sách của nước nhập khẩu, về đối thủ cạnh tranh đều có tác động lớn đến hoạt động XKNS. Điều này đòi hỏi các nước nâng cao khả năng dự báo thị trường, cơ chế, chính sách điều hành quản lý hoạt động XKNS phải linh hoạt để theo kịp với những sự thay đổi nhanh chóng trên thị trường thế giới.
1.1.3. Vai trò của xuất khẩu nông sản
Với một số quốc gia có lợi thế nhất định về điều kiện tự nhiên và lao động thì xuất khẩu nông sản sẽ đóng góp một phần rất quan trọng trong GDP và có vai trò to lớn với phát triển của một quốc gia, cụ thể:
Xuất khẩu nông sản góp phần quan trọng trong tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế của một quốc gia. Xuất khẩu hàng hóa nói chung, xuất khẩu nông sản nói riêng và sự tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Xuất khẩu có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của nền kinh tế và được thể hiện qua sự đóng góp trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Khi kim ngạch xuất khẩu càng tăng thì tổng cầu về sản phẩm trong nước sẽ càng tăng và sản lượng tăng. Với những quốc gia có lợi thế nhất định về điều kiện tự nhiên và lao động thì nguồn thu từ xuất khẩu nông sản chính là mục tiêu mà quốc gia đó hướng đến. Bởi vậy, xuất khẩu nông sản càng nhiều sẽ làm cho KNXK nói riêng và GDP của cả nước nói chung càng lớn trong điều kiện các nhân tố khác được coi là không đổi. Đây được xem là năng lực cạnh tranh của quốc gia trên thị trường thế giới.
Xuất khẩu nông sản góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất phát triển theo hướng sử dụng có hiệu quả nhất nguồn lực và lợi thế của quốc gia. Do tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi nhanh chóng. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa để phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới là con đường tất yếu đối với từng quốc gia. Để phục vụ cho xuất khẩu, việc tổ chức sản xuất ở mỗi quốc gia đều phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới. Điều này tác động tích cực đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Xuất khẩu nông sản có tác động tích cực đến việc nâng cao đời sống của nhân dân trên cơ sở tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Sản xuất nông sản xuất khẩu có khả năng thu hút hàng triệu lao động vào làm việc với thu nhập cao góp phần cải thiện đời sống. Ở những nước có nguồn lao động dồi dào với tỷ lệ lao động nông thôn lớn, việc đẩy mạnh xuất khẩu nông sản không chỉ giải
quyết được một lượng lớn lao động không có việc làm mà còn tạo nên sự ổn định về thu nhập cho những người dân sống ở nông thôn.
Xuất khẩu nông sản góp phần giữ ổn định nền kinh tế của đất nước. Trong các ngành hàng xuất khẩu thì nông sản là ngành hàng sử dụng nhiều nguồn lực lao động tại chỗ hơn cả. Cho nên, khi xuất khẩu nông sản được giữ ổn định và tăng trưởng sẽ làm nền kinh tế có nhiều cơ hội hơn để phát triển. Với các quốc gia đi lên từ ngành nông nghiệp, vai trò của xuất khẩu nông sản luôn giữ một vị trí quan trọng trong sự ổn định và phát triển kinh tế của đất nước. Thực tế cho thấy, ở nhiều quốc gia khi ngành công nghiệp tăng trưởng âm, dịch vụ chưa phát triển nhưng ngành nông nghiệp phát triển mạnh đã cứu vãn được sự khủng hoảng kinh tế trong nước… Xuất khẩu nông sản góp phần mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối
ngoại, tăng cường địa vị kinh tế của quốc gia trên thị trường thế giới. Xuất khẩu nông sản là một hoạt động kinh tế đối ngoại, và có vai trò thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại khác cùng phát triển. Bởi vì xuất khẩu nông sản phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của các hoạt động dịch vụ quốc tế trong các lĩnh vực khác như: đầu tư tài chính - tín dụng, bảo hiểm, thanh toán quốc tế, phát triển vận tải quốc tế, chuyển giao công nghệ.
Xuất khẩu nông sản thúc đẩy quá trình phân công và chuyên môn hóa quốc tế, là thước đo đánh giá kết quả của quá trình hội nhập quốc tế của một quốc gia vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Trong bối cảnh mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động xuất nhập khẩu của các nước chính là thước đo đánh giá kết quả của quá trình hội nhập và phát triển trong mối quan hệ tùy thuộc vào nhau giữa các quốc gia. Mỗi quốc gia sản xuất và xuất khẩu hàng hóa nói chung và hàng nông sản nói riêng không chỉ đáp ứng thị trường khu vực mà còn cả thị trường toàn cầu. Thông thường, một quốc gia sẽ lựa chọn một số mặt hàng có lợi thế để đầu tư sản xuất và xuất khẩu đồng thời nhập khẩu trở lại các sản phẩm mà mình không có hoặc có ít lợi thế. Từ đây sẽ hình thành nên sự phân công lao động và chuyên môn hóa quốc tế, từng bước đưa nền kinh tế của mỗi quốc gia gắn liền với nền kinh tế thế giới. Sự phát triển của mỗi quốc gia sẽ được đo lường bằng kết quả hội nhập của quốc gia đó với thế giới.
Xuất khẩu nông sản góp phần thúc đẩy cải tiến cơ chế quản lý, chính sách kinh tế của nhà nước cho phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. Toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại đã, đang là xu thế phát triển chung của toàn thế giới, nó tác động sâu sắc và toàn diện đối với mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội của các quốc gia, làm cho nền kinh tế mỗi nước ngày càng gắn bó chặt chẽ với nền kinh tế toàn cầu. Chính vì vậy mà mỗi quốc gia, mỗi ngành khi tham gia vào thương mại quốc tế là đã tham gia vào một sân chơi với luật chơi chung, sức ép cạnh tranh lớn song cũng rất bình đẳng. Để xuất khẩu hàng hóa nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng ngày một phát triển thì việc rà soát, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành cho phù hợp với những cam kết quốc tế, phù hợp với quy định của tổ chức WTO.
1.2. Chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản
1.2.1. Khái niệm và phân loại chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản
1.2.1.1. Khái niệm
Khái niệm về chính sách
Cho đến nay vẫn có nhiều quan điểm khác nhau về “chính sách”. James Anderson (2011) cho rằng “Chính sách là một quá trình hành động có mục đích được theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm” Theo Lê Chi Mai (2001) “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể, chương trình hành động do các Nhà quản lý đề ra để thực hiện đường lối, nhiệm vụ để giải quyết một vấn đề thuộc phạm vi thẩm quyền” Còn Trịnh Thị Ái Hoa (2007) lại cho rằng “Chính sách là tổng thể các hành động, các quan điểm với công cụ, phương tiện, biện pháp mà chủ thể ban hành chính sách sử dụng để theo đuổi các mục tiêu đã định trong một khoảng thời gian xác định”.
Với những quan điểm nêu trên chính sách có thể được xem như một quá trình, nó bao gồm không chỉ việc xây dựng chính sách mà còn bao hàm cả việc triển khai, đánh giá và điều chỉnh chính sách.
Như vậy, chính sách có thể được hiểu là phương thức hành động được một chủ thể khẳng định và thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại. Trên
góc độ vĩ mô chủ thể đưa ra chính sách là chính phủ, chính sách xác định những chỉ dẫn chung cho quá trình ra quyết định. Chính sách vạch ra phạm vi hay giới hạn cho phép của các quyết định là có thể và không thể. Theo đó, chính sách hướng suy nghĩ và hành động của mọi thành viên trong tổ chức nào đó vào việc thực hiện các mục tiêu chung của tổ chức, quốc gia.
Chính sách thúc đẩy xuất khẩu
Chính sách thúc đẩy xuất khẩu là một bộ phận của chính sách công. Chính sách thúc đẩy xuất khẩu là một hệ thống các quan điểm, đường lối, thể chế hóa của Nhà nước, các quy định hướng dẫn, khuyến khích và tăng cường mặt hàng và thị trường xuất khẩu cho phù hợp với các quy định và cam kết quốc tế hiện hành.
Chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản
Chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản là một bộ phận của chính sách thúc đẩy xuất khẩu, nó khác biệt duy nhất ở đối tượng chính sách. Xuất khẩu nông sản là lĩnh vực quan trọng, mang tính nhạy cảm cao, lại có nhiều đặc điểm rất riêng so với các hoạt động kinh tế khác. Do vậy đối với nhiều nước, trong đó có Việt Nam, các chính sách trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản được nhóm thành một chính sách riêng và được gọi là chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản. “Chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản là tổng thể các quan điểm, các chủ trương, các quy hoạch, nguyên tắc, công cụ, biện pháp mà các cơ quan nhà nước lựa chọn để tác động vào lĩnh vực xuất khẩu nông sản làm cho việc xuất khẩu nông sản diễn ra theo hướng tích cực trong một thời kì nhất định nhằm đạt được những mục tiêu đã định”(Trịnh Thị Ái Hoa, 2007).
Trong khái niệm chính sách xuất khẩu nông sản trên cần chú ý:
Thứ nhất, chính sách XKNS do nhà nước ban hành. Đó là các cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước, bao gồm quốc hội, chính phủ, các bộ.
Thứ hai, chính sách XKNS là các quyết định của Nhà nước, bao gồm quyết định can thiệp và không can thiệp. Chính sách xuất khẩu nông sản không chỉ là những dự định, chủ trương của nhà nước sẽ được thực hiện và đưa ra những kết quả trên thực tế mà còn cả quyết định hành động.