Những nhân tố ảnh hưởng đến chỉ số giá cổ phiếu VN-Index - 2

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ SỬ DỤNG

Biểu đồ 3.1. Diễn biến chỉ số VN-index và chỉ số giá tiêu dùng giai đoạn 2001-2004 Biểu đồ 3.2. Diễn biến chỉ số VN-index và tỷ giá USD/VND giai đoạn 2001-2004 Biểu đồ 3.3. Diễn biến chỉ số VN-Index và giá vàng trong giai đoạn 2001-2004 Biểu đồ 3.4. Diễn biến chỉ số VN-Index và lãi suất cho vay giai đoạn 2001-2004 Biểu đồ 3.5. Diễn biến chỉ số VN-Index và cung tiền 2001-2004

Biểu đồ 3.6. Diễn biến chỉ số VN-index và chỉ số giá tiêu dùng giai đoạn 2005-2007 Biểu đồ 3.7. Diễn biến chỉ số VN-Index và giá vàng 2005-2007

Biểu đồ 3.8.Diễn biến chỉ số VN-Index trong tình hình lạm phát giai đoạn 2008-2010 Biểu đồ 3.9. Diễn biến chỉ số VN-Index sau lạm phát giai đoạn 2008-2010

Biểu đồ 3.10. Diễn biến chỉ số VN-Index và lãi suất giai đoạn 2008-2010 Biểu đồ 3.11. Diễn biến chỉ số VN-Index và lãi suất giai đoạn 2011-2012 Biểu đồ 3.12. Diễn biến chỉ số VN-Index trong lạm phát giai đoạn 2011-2012 Biểu đồ 3.13. Diễn biến chỉ số VN-Index và giá vàng giai đoạn 2011-2012 Biểu đồ 3.14. Diễn biến chỉ số VN-Index và lãi suất giai đoạn 2013-2015

Biểu đồ 3.15. Diễn biến chỉ số VN-Index và tỷ giá USD/VND giai đoạn 2013-2015 Biểu đồ 3.16. Diễn biến chỉ số VN-Index và giá vàng năm 2013-2015

Biểu đồ 4.1. Vòng tròn đơn vị với các giá trị riêng

Đồ thị 4.1. Phản ứng của VN-Index đối với tỷ giá USD/VND Đồ thị 4.2. Phản ứng của VN-Index đối với giá vàng

Đồ thị 4.3. Phản ứng của VN-Index đối với lãi suất Đồ thị 4.4. Phản ứng của VN-Index đối với cung tiền

Đồ thị 4.5. Phản ứng của VN-Index đối với chỉ số giá tiêu dùng

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 77 trang tài liệu này.

CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU

1.1. Lý do chọn đề tài

Những nhân tố ảnh hưởng đến chỉ số giá cổ phiếu VN-Index - 2

Năm 2016 cùng với sự tăng điểm khá ấn tượng của VN-Index thì thị trường chứng khoán thật sự là kênh thu hút vốn gây được sự chú ý nhiều nhất không chỉ từ giới đầu tư chuyên nghiệp, các doanh nghiệp lớn nhỏ mà còn của tất cả những ai có đồng vốn nhàn rỗi. Trong thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng thì mỗi một quyết định đầu tư đều cần phải có sự tính toán chi tiết kết hợp với những thông tin và số liệu đáng tin cậy, bởi các doanh nghiệp và các nhà đầu tư cá nhân luôn phải đối mặt trực tiếp với sự biến động của thị trường. Một biến động dù nhỏ nhưng có tác động cực kỳ lớn đến lợi ích của chính họ.Và bộ chỉ số VN-Index là một trong những bộ chỉ số giúp nhà đầu tư có cái nhìn tổng quan về diễn biến trên thị trường chứng khoán từ đó đưa ra quyết định mua hay bán chứng khoán. Tuy nhiên chỉ số VN-Index không độc lập mà biến động phụ thuộc vào các nhân tố khác trong nền kinh tế như: chỉ số lạm phát, lãi suất cơ bản, giá vàng, tỷ giá hối đoái (USD/VND) và cung tiền.Vì vậy để hiểu được những nhân tố này tác động như thế nào đến chỉ số giá cổ phiếu VN-Index, tác giả đã chọn đề tài “Những nhân tố ảnh hưởng đến chỉ số giá cổ phiếu VN-Index”.

1.2. Mục đích nghiên cứu

Áp dụng kiến thức kinh tế lượng và kết quả mô hình hồi quy để xem xét có tồn tại mối quan hệ dài hạn của các nhân tố vĩ mô như: chỉ số giá tiêu dùng, lãi suất cơ bản, giá vàng, tỷ giá hối đoái (USD/VND), cung tiền với chỉ số giá cổ phiếu VN-Index của các cổ phiếu được niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, bài khóa luận cũng muốn xem xét thị trường chứng khoán Việt Nam tuy còn non trẻ so với thị trường chứng khoán quốc tế nhưng có làm tốt vai trò phong vũ biểu của nền kinh tế nước ta hay không.

1.3. Câu hỏi nghiên cứu

Mỗi sự thay đổi hoặc biến động của các nhân tố: chỉ số lạm phát, lãi suất cho vay VND, giá vàng, tỷ giá hối đoái (USD/VND) và cung tiền sẽ tác động như thế nào đến chỉ số giá cổ phiếu VN-Index.

1.4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: bài nghiên cứu sẽ tiếp cận về mặt số liệu của các đối tượng:

+ Chỉ số giá cổ phiếu VN-Index.

+ Chỉ số giá tiêu dùng.

+ Lãi suất cho vay VND.

+ Giá vàng

+ Tỷ giá hối đoái USD/VND

+ Cung tiền M2

Phạm vi nghiên cứu: trong giai đoạn từ tháng 1 năm 2005 đến hết tháng 12 năm 2015 tại thị trường Việt Nam. Số liệu được thu thập theo từng tháng.

1.5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng: Bằng ứng dụng phần mềm Eviews 8.0, để chạy mô hình chuỗi thời gian. Kiểm định các tính chất của dữ liệu dạng chuỗi thời gian và thành lập phương trình đồng liên kết trong mô hình VECM. Từ mô hình tạo được tiến hành giải thích các biến.

Phương pháp mô tả dữ liệu: Dựa vào số liệu và biểu đồ để nêu ra nhận xét một cách tổng quan các nhân tố ảnh hưởng như thế nào đến chỉ số giá cổ phiếu VN-Index.

1.6. Kết cấu đề tài: 5 chương

Chương 1: Giới thiệu

Chương 2: Cơ sở lý thuyết về thị trường chứng khoán, chỉ số giá cổ phiếu VN-Index và các nhân tố ảnh hưởng tới chỉ số giá cổ phiếu.

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu Chương 4: Kết quả nghiên cứu

Chương 5: Kết luận và một số giải pháp nhằm gia tăng tác động của các nhân tố đến chỉ số giá cổ phiếu VN-Index và phát triển ổn định thị trường chứng khoán.

CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN, GIÁ CHỨNG KHOÁN VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI CHỈ SỐ GIÁ CỔ PHIẾU

2.1. Tổng quan về thị trường chứng khoán

2.1.1. Khái niệm và bản chất của thị trường chứng khoán

Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về thị trường chứng khoán, tuy nhiên nếu dựa vào vị trí và đặc điểm hoạt động của thị trường trong nền kinh tế thì ta có thể hiểu về thị trường chứng khoán theo định nghĩa mà PGS.TS. Bùi Kim Yến và TS. Thân Thị Thu Thủy (2008) đã đưa ra như sau: “Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường vốn dài hạn, thực hiện cơ chế chuyển vốn trực tiếp từ nhà đầu tư sang nhà phát hành, qua đó thực hiện chức năng của thị trường tài chính là cung ứng nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế”[1,54].

Có thể diễn giải định nghĩa về thị trường như sau: Khi một doanh nghiệp muốn huy động vốn thì ngoài việc đi vay từ ngân hàng thì họ còn có một lựa chọn khác đó là phát hành chứng khoán, bên cạnh những doanh nghiệp đang cần vốn sẽ có những cá nhân, tổ chức có dòng tiền nhàn rỗi muốn đầu tư để sinh lời, người cần vốn và người có khả năng cung cấp vốn sẽ giải quyết nhu cầu của mình thông qua việc mua bán chứng khoán các loại (cơ chế chuyển vốn trực tiếp), tùy thuộc vào nhu cầu vốn trung hay dài hạn của mình mà doanh nghiệp sẽ phát hành loại chứng khoán tương ứng. Và nơi để thực hiện tất cả những hoạt động này là thị trường chứng khoán.

2.1.2. Hàng hóa của thị trường chứng khoán

Hàng hóa của thị trường chứng khoán là chứng khoán. Tại Việt Nam khi nói về chứng khoán thì người ta thường hiểu đó là cổ phiếu và thị trường chứng khoán là thị trường giao dịch cổ phiếu, cách hiểu này cũng không sai bởi cổ phiếu là loại chứng khoán chiếm tỷ trọng lớn, thường xuyên, chủ yếu được giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Tuy vậy, ta cần phải hiểu một cách chính xác rằng chứng khoán là một tên gọi chung để chỉ các tài sản tài chính sau: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư và chứng khoán phái sinh. Từ chính tính chất của các tài sản tài chính mà chứng khoán có nhiều cách phân loại:

Nếu căn cứ vào tính chất của nguồn vốn huy động được từ phát hành chứng khoán thì ta có thể phân loại chứng khoán thành: chứng khoán nợ (thường là trái phiếu) và chứng khoán vốn (cổ phiếu các loại). Cổ phiếu mặc dù cũng giống như trái phiếu dùng để

huy động vốn nhưng nguồn vốn này không có tính chất hoàn trả khi đáo hạn cho trái chủ như trái phiếu, bên cạnh đó thực chất mối quan hệ giữa trái chủ và nhà phát hành trái phiếu là quan hệ chủ nợ (trái chủ)-người đi vay (doanh nghiệp hoặc chính phủ) còn quan hệ giữa giữa cổ đông và người phát hành cổ phiếu (thường là doanh nghiệp) là quan hệ đồng sở hữu. Vì thế nên cổ phiếu không được xét vào chứng khoán nợ.

Mặc dù chứng khoán có tính thanh khoản cao nhưng vẫn có những loại chứng khoán gây khó khăn cho nhà đầu tư muốn giao dịch. Căn cứ vào tính chất này ta chia thành: chứng khoán vô danh (rất dễ mua bán chuyển đổi ) và chứng khoán ký danh (việc giao dịch chứng khoán này rất khó khăn).

Khi đầu tư vào chứng khoán nhà đầu tư thường quan tâm tới lợi tức, vì thế nếu căn cứ vào tính ổn định của khoản lợi tức mà nhà đầu tư được hưởng thì chứng khoán có thể được chia thành: chứng khoán có lợi tức ổn định (thường là trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi vì doanh nghiệp kinh doanh lời hay lỗ đều phải trả lợi tức cho trái chủ và nguời nắm giữ cổ phiếu ưu đãi. Cùng với đó là trái chủ và cổ đông có cổ phiếu ưu đãi sẽ được ưu tiên thanh toán khi doanh nghiệp phá sản hoặc giải thể) và không ổn định (ví dụ như cổ phiếu thường vì lợi tức mà người nắm giữ cổ phiếu nhận được phụ thuộc hoàn toàn vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp kinh doanh có lời thì sẽ được chia lợi tức và ngược lại ).

2.1.3. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán

Theo định nghĩa, ta có thể hiểu trên thị trường chứng khoán tồn tại hai chủ thể là người cần vốn và người có khả năng cung cấp vốn. Tuy nhiên theo thực tế thị trường chứng khoán Việt Nam và thuật ngữ kinh tế thì có 4 chủ thể tham gia gồm:

+ Nhà phát hành chứng khoán

+ Nhà đầu tư chứng khoán

+ Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán

+ Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán.

Nhà phát hành chứng khoán ở đây có thể là: Chính phủ, doanh nghiệp hoặc các tổ chức tài chính. Các loại sản phẩm thông thường của từng nhà phát hành là: Chính phủ thường phát hành trái phiếu (bởi trái phiếu là loại chứng khoán có tính ổn định cao, mệnh giá lớn) , đối với doanh nghiệp thường là các loại cổ phiếu (thường là cổ phiếu thường) hoặc trái phiếu, tổ chức tài chính phát hành trái phiếu hoặc chứng chỉ quỹ.

Nhà đầu tư có thể là nhà đầu tư cá nhân hoặc có tổ chức. Tùy vào mục tiêu và khả

năng mà mỗi chủ thể sẽ có cách thức đầu tư khác nhau. Ví dụ: đối với các nhà đầu tư cá nhân tùy theo khả năng chấp nhận rủi ro của mình mà họ sẽ lựa chọn loại chứng khoán phù hợp, còn những nhà đầu tư có tổ chức (nếu là công ty chứng khoán sẽ có mảng hoạt động tự doanh chứng khoán) họ thường tìm đến những khoản lợi nhuận lớn nên sẽ luôn có một bộ phận chuyên nghiệp để xây dựng chiến lược và danh mục đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, hạn chế rủi ro .

Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán gồm công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ, tại Việt Nam hiện nay công ty quản lý quỹ không nhiều cho đến năm 2015 chỉ có khoảng hơn 40 công ty đang hoạt động trên thị trường chứng khoán. Tổ chức hoạt động chính và chủ yếu nhất hiện nay là các công ty chứng khoán, hầu hết doanh thu của các công ty này đến từ hoạt động môi giới và tư vấn đầu tư chứng khoán.

Các tổ chức có liên quan trên thị trường chứng khoán gồm: Cơ quan quản lý nhà nước (Ủy Ban Chứng Khoán Nhà nước Việt Nam), Sở giao dịch chứng khoán (gồm Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội) , Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán, Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán…

2.1.4. Phân loại thị trường chứng khoán

Từ chính sự đa dạng của các loại hàng và chủ thể tham gia mà thị trường chứng khoán có rất nhiều cách phân loại, tuy nhiên có 2 cách phân loại chính đó là dựa vào mục đích của giao dịch và căn cứ vào hình thức tổ chức, phương thức giao dịch.

Mọi hoạt động trên thị trường đều được chuẩn hóa và có những quy trình bắt buộc phải tuân theo. Căn cứ vào quy trình này (mục đích của giao dịch) thị trường chứng khoán có thể chia thành: thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Để huy động vốn bằng chứng khoán thì doanh nghiệp phải phát hành chứng khoán, hoạt động này diễn ra trên thị trường sơ cấp. Sau khi được phát hành trên thị trường sơ cấp chứng khoán sẽ được mua đi bán lại trên thị trường thứ cấp. Qua quy trình trên ta có thể thấy mỗi một thị trường đều đóng vai trò là một mắt xích quan trọng, thị trường thứ cấp không thể tồn tại nếu thiếu thị trường sơ cấp (nếu không có chứng khoán được phát hành trên thị trường sơ cấp thì thị trường thứ cấp sẽ không có hàng hóa là chứng khoán để hoạt động giao dịch) và thị trường sơ cấp không thể tiếp tục phát triển nếu không có thị trường thứ cấp (chứng khoán sau khi được phát hành ra trên thị trường sơ cấp mà không có thị trường thứ cấp thì không có nơi để giao dịch).

Không phải bất cứ chứng khoán nào cũng được giao dịch tại Trung tâm giao dịch

chứng khoán. Với những chứng khoán chưa được niêm yết hoặc chỉ có thể mua bán thông qua thương lượng thì sẽ có một thị trường riêng cho chúng. Căn cứ vào hình thức tổ chức và phương thức giao dịch này thì gồm có 2 loại thị trường chính: thị trường giao dịch tập trung (Sở giao dịch chứng khoán) và thị trường phi tập trung (OTC). Trong 2 loại thị trường trên thì Trung tâm giao dịch chứng khoán là thị trường chính thức, quan trọng (bởi những chứng khoán niêm yết trên thị trường này thường là chứng khoán của các công ty lớn, thỏa mãn những điều kiện về tiêu chuẩn niêm yết) và chính yếu nhất (thị trường này quyết định đến tình trạng hoạt động của các thị trường còn lại, khi thị trường chính hoạt động sôi nổi thì các thị trường còn lại cũng như vậy).

2.1.5. Chức năng của thị trường chứng khoán

Khi nói đến chức năng của thị trường chứng khoán thì điều đầu tiên phải đề cập đến đó là huy động vốn. Đó là chức năng chủ yếu nhất của thị trường, bên cạnh đó thị trường còn có những chức năng quan trọng khác như: tạo ra môi trường đầu tư cho tất cả các cá nhân và tổ chức muốn tìm kiếm lợi nhuận, tạo tính thanh khoản cho chứng khoán, giúp nhà đầu tư đánh giá được hoạt động của doanh nghiệp và là nơi để chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô.

Bàn đến chức năng huy động vốn, ta thường chỉ hiểu theo một khía cạnh hẹp rằng phát hành chứng khoán chỉ là hình thức huy động vốn để hỗ trợ cho hoạt động của riêng doanh nghiệp. Tuy nhiên, ta phải hiểu rộng ra rằng khi ta dùng dòng tiền nhàn rỗi để đầu tư vào chứng khoán của doanh nghiệp và doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn ta đầu tư này để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh và đạt được kết quả kinh doanh tốt thì không chỉ doanh nghiệp hưởng lợi mà nền kinh tế cũng được hưởng lợi và phát triển ổn định. Tương tự như vậy đối với chứng khoán do chính phủ phát hành thì dòng tiền đầu tư sẽ được dùng để đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế xã hội. Tóm lại, huy động vốn không chỉ giúp doanh nghiệp giải quyết tình trạng thiếu hụt vốn mà còn là huy động để đầu tư vào nền kinh tế.

Chứng khoán là một loại hàng hóa đặc biệt mang tính trừu tượng và có giá trị tài chính vì thế nó không thể được giao dịch chung với với những sản phẩm khác trên những thị trường như: thị trường ngoại tệ, thị trường hàng hóa và dịch vụ. Và khi thị trường chứng khoán ra đời đã tạo một môi trường giao dịch hợp pháp, nhất quán, thuận lợi đáp ứng được tính chất của loại hàng hóa đặc biệt này. Không chỉ vậy, trong một môi trường này các nhà đầu tư rất dễ dàng chuyển đổi từ cổ phiếu sở hữu sang tiền, tạo nên tính

thanh khoản cao cho thị trường.

Cổ phiếu của một doanh nghiệp có thể xem như là đại diện của chính doanh nghiệp đó trên thị trường. Dựa vào tình hình biến động giá của cổ phiếu mà nhà đầu tư có thể đánh giá tổng quan được tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Trong trường hợp bỏ qua các yếu tố khách quan chi phối giá cổ phiếu như yếu tố chính trị, chính sách mới … thì khi giá cổ phiếu tăng đồng nghĩa với sự tăng trưởng của doanh nghiệp và ngược lại.

Như đã trình bày ở trên thị trường chứng khoán không chỉ là một môi trường dành cho doanh nghiệp và nhà đầu tư tìm kiếm lợi nhuận và giải quyết nhu cầu vốn mà còn là nơi để Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô như bù đắp thâm hụt ngân sách, tăng thu hút dòng vốn ngoại đầu tư gián tiếp hoạc trực tiếp vào Việt Nam, chính sách tiền tệ mở rộng hay thu hẹp. Về mặt lý thuyết thì một thị trường chứng khoán phát triển có kiểm soát nên là thị trường nhạy cảm với bất cứ một chính sách kinh tế nào của chính phủ. Khi Chính phủ đang thực hiện chính sách mở rộng đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế sẽ tạo tác động tích cực khiến cho thị trường chứng khoán tăng điểm và ngược lại. Bên cạnh đó nếu Chính phủ muốn bù đáp thâm hụt ngân sách thì phát hành trái phiếu trên thị trường là lựa chọn đầu tiên.

Có thể nói chính những chức năng này của thị trường chứng khoán mà nền kinh tế trở nên đa dạng hơn, các nhà đầu tư có thêm môi trường để đầu tư tìm kiếm lợi nhuận, doanh nghiệp có môi trường để huy động vốn nhanh chóng và hiệu quả phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, chính phủ có thêm môi trường sử dụng các công cụ tài chính để kiểm soát và điều tiết nền kinh tế.

2.2. Tổng quan về chỉ số giá cổ phiếu VN-Index

2.2.1. Khái niệm và cách tính chỉ số giá cổ phiếu VN-Index

Trên thị trường chứng khoán có rất nhiều cổ phiếu giao dịch, và giá mỗi ngày của những cổ phiếu này đều khác nhau. Vì vậy để nắm bắt được biến động chung của thị trường thì cần phải có một chỉ số thể hiện được xu hướng biến động của những cổ phiếu này. Và VN-Index là một chỉ số như vậy. “VN-Index là chỉ số giá bình quân của các cổ phiếu giao dịch tại SGDCK TP.HCM. Chỉ số VN-Index so sánh giá trị thị trường hiện hành với giá trị thị trường cơ sở vào ngày gốc 28/7/2000, là ngày thị trường chứng khoán chính thức đi vào hoạt động.

Công thức tính chỉ số:

Xem tất cả 77 trang.

Ngày đăng: 30/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí