Diễn Xướng Những Khúc Hát Lễ Hội Nàng Hai Của Người Tày Ở Thạch An - Cao Bằng


gia công thêm. Nó có một sức sống rất bền bỉ. Những bài dân ca được lưu truyền từ đời nọ sang đời kia, mãi mãi sống trong lòng nhân dân vì nó ghi lại những tình cảm nằm sâu trong đáy lòng của nhân dân, biểu lộ những tình cảm trong sáng và chân thực nhất của họ. Nhân dân có thể tìm thấy trong dân ca một niềm an ủi, khuyến khích và vì thế nhân dân yêu tha thiết dân ca, luôn luôn mài giũa dân ca đến mức độ óng chuốt. Do vậy, dân ca cứ sống mãi trong lòng người là vậy.

Lượn Hai là bài ca tâm hồn của người lao động Tày. Chất thơ trong tiếng nói của dân tộc cứ thấm mãi vào câu hát, cho tâm hồn của họ càng thêm dạt dào. Họ yêu quí tiếng nói dân tộc mình, lựa chọn, sáng tạo ngôn ngữ ấy để cho tiếng nói càng thêm sáng, thêm trong. Người Tày họ đã cố gắng hoàn thiện mình mà bắt đầu từ ngôn ngữ.

3.2. Diễn xướng những khúc hát lễ hội Nàng Hai của người Tày ở Thạch An - Cao Bằng

Diễn xướng là một yếu tố quan trọng của các loại hình nghệ thuật văn hóa dân gian. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Diễn xướng là trình bày sáng tác dân gian bằng động tác, lời lẽ, âm thanh, nhịp điệu” [43, Tr.67]. Như vậy theo định nghĩa, ta có thể hiểu diễn xướng Lượn Hai là trình bày làn điệu dân ca ấy bằng những động tác, lời lẽ, âm thanh, nhịp điệu trong lễ hội Nàng Hai của người Tày ở Thạch An – Cao Bằng.

3.2.1. Môi trường diễn xướng

Môi trường diễn xướng có thể coi là mảnh đất màu mỡ, cái nôi nuôi dưỡng và sáng tạo văn học dân gian. Môi trường diễn xướng gồm hai yếu tố, đó là thời gian diễn xướng và không gian diễn xướng.

3.2.1.1. Thời gian diễn xướng

Hát Lượn là loại hình dân ca đặc trưng của dân tộc Tày. Nó gắn bó trực tiếp và đi vào muôn mặt của đời sống, sinh hoạt của nhân dân. Hát Lượn đi


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 164 trang tài liệu này.

vào giấc ngủ của con trẻ, đi theo chị ra chợ, đi theo mẹ lên nương, đi theo anh những đêm xuân hát giao duyên tìm bạn. Rồi đến ngày trọng đại của đời người, nhà trai phải trổ hết tài để đón được nàng dâu về nhà. Khi không may một người nằm xuống, tiếng Lượn lại một lần nữa cất lên để tiễn đưa hồn người đã khuất... Và vượt ra khỏi vành nôi, bay theo làn khói lam trên nóc nhà sàn, men theo vách đá, tỏa xuống nương ngô... tiếng hát Lượn tìm về thung lũng - nơi tổ chức hội Nàng Hai.

Thường thường, khoảng thời gian có thể coi là thích hợp nhất để tổ chức hát Lượn là những ngày xuân. “Mùa xuân - mùa núi rừng ngập lá ngập hoa, con người mở hội hát ca mừng rẫy, mừng đồng, mừng núi non, mừng người, mừng tình nghĩa... Mùa xuân, mùa của sli, lượn ca hát của người Tày, Nùng” [20, Tr. 259]. Trong tiết trời mưa xuân rắc phấn lên vạn vật, cây cỏ cựa mình vươn dậy, lồng ngực đang căng đầy hơi thở của mùa xuân, bà con ở huyện Thạch An lại mở hội Nàng Hai để hát những bài Lượn Hai chan chứa ân tình. Trải dài theo nắng xuân vàng ấm áp, bay theo cánh hoa mận hoa mơ trắng muốt, chao lượn cùng đôi én ương đang tình tứ, câu hát Lượn cứ lan tỏa khắp núi rừng:

Những khúc hát lễ hội Nàng Hai của người Tày ở Thạch An – Cao Bằng - 14

Hoa nở mùa xuân khắp núi đồi Như gấm trải dài phủ khắp nơi Bạn hỡi nào đi cùng vãn cảnh Bướm ong còn hội lọ là người.

Hình như, đất trời đã ưu ái dân tộc Tày một không khí rất xuân để đón Nàng Hai cầu mùa.

Trước năm 1945, lễ hội Nàng Hai ở Thạch An, tỉnh Cao Bằng được tổ chức bắt đầu từ ngày tết Đắp Nọi (30/1 âm lịch) đến hết ngày 18/3 âm lịch (kéo dài 48 ngày). Sau năm 1945, lễ hội được rút gọn lại còn khoảng 12 ngày,


bắt đầu từ trung tuần đến hết tháng 3 Âm lịch, trong đó có hai ngày chính là 17/3 và 18/3 thực hiện nghi lễ đón trăng, cầu trăng và tiễn trăng.

Khoảng thời gian này không chỉ là lúc đất trời đương đẹp nhất, không khí tết vẫn còn vương vấn trong lòng người, mà hơn nữa đồng bào chưa bận mùa màng. Ngày xưa, đồng bào chỉ cấy lúa một vụ (từ tháng 4 âm lịch đến hết tháng 10 âm lịch) nên những tháng đầu năm với họ là “tháng ăn chơi” - tháng hội hè. Những bận rộn của vụ trước đã qua, vụ mới lại chưa tới vì vậy mà lòng người thư thái, bản trên làng dưới nô nức đi trẩy hội, hát những bài Lượn Hai để giãi bày tâm tình.

Đi trẩy hội là một nhu cầu giao lưu tình cảm của đồng bào Tày. Tiếng ca cứ cất lên thật tự nhiên, giản dị mà lại sâu sắc đến vô cùng:

Thua rườn nộc Họa mi lảnh lót

Tiểng nộc rỏn vọng khóp thua khau Bjoóc mận bjoóc lì khao lướp lướp Slửa xỏm noọng slao chài chứ mại Hẹn pi lăng thâng hội tlẻo mà

Hát sli lượn tẩư hai shíp hả.

Dịch:


Chim họa mi hót đầu nhà

Tiếng ca trong trẻo sao mà say mê Trắng tinh hoa mận hoa lê

Áo chàm nhuộm tím người về chẳng quên Hẹn em đến hội lại lên

Để mà hát Lượn những đêm trăng tròn.

và giữa tiết xuân đang trở lại ấy, tiếng hát của lòng người càng thêm nồng ấm và thiết tha hơn.


3.2.1.2. Không gian diễn xướng

Không gian diễn xướng của khúc hát lễ hội Nàng Hai chính là môi trường sinh hoạt, nơi tiến hành tổ chức hát Lượn.

Hát Lượn Hai được diễn ra trong không khí linh thiêng của nghi lễ tôn giáo và trong không khí vui rộn ràng của ngày hội. “Ở đây, không khí hội như trộn lẫn giữa thực tại và huyền ảo trong mối giao hoà tình cảm giữa người trần tục và người trên cõi tiên trong tiết trời xuân sáng láng đầy phấn chấn” [40, Tr. 340].

Trong suốt thời gian diễn ra lễ hội, bà con quây quần xung quanh nhà Nàng Hai để nghe và hát Lượn Hai. Không khí đầy tôn nghiêm nhưng cũng rất ấm áp ấy khiến tiếng nhạc xóc càng thêm rộn ràng, tiếng đàn tính lại thêm trong trẻo thánh thót để khúc tụng ca khi trầm khi bổng vang lên trong màn khói hương tỏa lên bàn tế:

Hạ giới gần pây tlẻo ầm ầm

Nưa bân kẻo khửn háng Tam Quang Pây mừa mởi Mẻ, mởi Nàng

Mà hội sle khai khao hoa, khao nậu.

Dịch:


Hạ giới người đi lại ầm ầm

Rầm rầm kéo lên chợ Tam Quang Mời Mẹ lại thêm mời Nàng

Về hội cầu mùa khao hoa khao nụ.

Tiếng Lượn Hai trầm linh cất lên như khiến không khí buổi lễ đón trăng

càng thêm linh thiêng, mang đậm màu sắc tôn giáo. Vì linh thiêng như vậy nên xung quanh sân khấu Nàng Hai bất kì ai cũng có thể giãi bày tất cả lòng mình, chỉ cấm kị một điều là không được phép nói đến tình yêu hoa nguyệt, tỏ tình.


Có lẽ sôi nổi và ý nghĩa nhất là phần hỏi đáp giữa người trần gian và Mẹ Trăng thông qua nhân vật trung gian là Nàng Hai. Người trần gian có thể hỏi Mẹ tất cả mọi việc, bày tỏ tình cảm yêu quí dành cho Mẹ...

Cứ như thế, hội vui kéo dài ngày lại ngày. Cũng trong thời gian đó, người ta tổ chức xen kẽ các trò chơi như đánh cầu, chọi gà, đánh quay.

Hát Lượn Hai diễn ra mang đặc trưng của “sân khấu nhà sàn” (chữ dùng của nhà văn Vi Hồng). Chính vì vậy nội dung của nó cũng mang tính chất xã hội và mọi tình cảm được thể hiện tế nhị với ngôn ngữ khá chau chuốt. Trong không gian diễn xướng pha trộn giữa hư và thực, người hát hội như càng cởi mở, tự tin cất lên làn điệu dân ca của quê hương mình. Có những bài Lượn Hai không phải để hỏi Mẹ Trăng, nói chuyện cùng người cõi tiên mà có khi là tiếng nói với chính lòng mình. Âm vang của điệu dân ca ấy được cất lên từ tâm hồn say mê, đọng lại mãi trong lòng người:

Bióoc tlào rủng rương thua bản Bióoc mận khao lướp thua khau

Tiểng lượn vọng mà tlồng tiểng noọng Tiểng shi tiểng lượn bấu ái mừa

Dịch:


Hoa đào nở thắm đồi trước Hoa mận nở trắng đồi sau Say sưa nghe ai đưa câu lượn

Say sưa nghe hát chẳng muốn về.

Những khúc hát lễ hội Nàng Hai được cất lên trong không khí vừa

trang nghiêm nhưng cũng thật lãng mạn và bay bổng. Tôn nghiêm đấy mà cũng thật mộng, thật thơ biết mấy. Thiếu nữ Tày không chỉ hát hay mà còn múa rất dẻo, rất đẹp. Những động tác múa của các Mụ Nàng, Mụ Nọi như cánh bướm bay lượn giữa ngàn hoa, như nâng cánh cho lời ca tiếng hát bay


thật xa, ngấm thật sâu trong hồn người chơi hội. Để cạn ngày xuân, lòng người vẫn tiếc:

Ve kêu ong bướm cùng hoa cỏ Ong bướm náo nức gọi gần xa Hội vui nam nữ bao tấp nập Tan rồi ong bướm vẫn tiếc hoa

Lượn Hai cũng như các làn điệu dân ca khác nó chỉ có thể được sống dậy và sinh sôi khi đặt nó trong môi trường diễn xướng. Môi trường diễn xướng giống như thứ nước trong gột rửa cho ý câu ca thêm sâu, lời dân ca thêm sáng. Làn điệu dân ca cầu mùa Lượn Hai có môi trường diễn xướng khá đặc biệt đó là lễ hội Nàng Hai đầu xuân, do đó nó chỉ có thể toả sáng hết giá trị của nó khi nó được đặt trong môi trường ấy.

3.2.2. Hình thức diễn xướng

Như trên đã trình bày, hình thức sinh hoạt diễn xướng của Lượn Hai có hai hình thức cơ bản: hình thức tự lượn và hình thức đối đáp.

Tự lượn là một hình thức diễn xướng tiêu biểu trong Lượn nói chung và Lượn Hai nói riêng. Tự lượn có thể hiểu là hiểu là người hát tự hát mà không có đối đáp. Hình thức diễn xướng này ở Lượn Hai biểu hiện khá sinh động: có tự lượn cá nhân và tự lượn tập thể. Ở trong lễ hội Nàng Hai, những người hát hội chính là Mẻ Cốc, hai nàng Gường và Sở, cùng với các Mụ Nàng, Mụ Nọi. Có lúc họ hát riêng, có lúc lại cùng hòa chung tiếng ca để hát khúc ca cầu mùa. Lượn Nàng Hai có nhiều khúc đoạn, mỗi khúc tương ứng với một nội dung riêng và do từng người đảm nhiệm. Ở khúc ca Ngóng đợi hồn Hằng Nga, Mẻ Cốc là người có vị trí cao nhất, đứng đầu đoàn hát cất tiếng gọi hồn

Nàng Hai từ trên trời xuống nhập hồn cho Gường và Sở:

Mọi vè au dú xiên phja

Mọi bióoc hom au dú pác vưởn


Khẩu nẩy khẩu hom van

...

Tao kim cắt lần lìm Tao ngần cắt lần loỏc

Hai Há dú cốc nụ lẻ mà Hai há dú cốc hoa lẻ tlẻo Mà wạ mẻ wạ nàng

Mà wạ nàng Hai Há.

Dịch:


Hương thơm vựơt ngàn đồi Rau thơm vườn em hái Mùi thơm gạo mới nấu

...

Dao vàng cắt dây mây Dao bạc cắt dây rớ Hai Há ở gốc nụ thì về

Hai Há ở gốc hoa thì lại.

Dù là tiếng hát gọi hồn nhưng thực chất nó có ý nghĩa như một lời thông báo, lời mời của người trần gửi đến các nàng tiên trên trời. Lời mời đó không phải ai cũng được phép nói mà phải là người giỏi hát, luôn được nhân dân kính trọng nói ra nên nó càng trang trọng hơn.

Nếu ai được chứng kiến từ đầu đến cuối những buổi hát Lượn Hai trong những ngày làng mở hội cầu mùa, sẽ thấy rõ một điều là thường Mẻ Cốc sẽ đảm nhiệm vai trò là người chủ xướng cho cuộc hát đó. Hơn nữa, nhân vật này cũng đảm nhiệm việc hát khá nhiều khúc hát gắn với các lễ nghi quan trọng như: xin phép thổ công, trình lễ vật, xuất hồn - nhập hồn Nàng Hai,


Cẩm thé ... với hình thức là tự lượn. Với giọng ca được tôi luyện, mài giũa theo năm tháng, giữa khói hương thiêng liêng, trước muôn người dự hội, tiếng đàn tiếng hát càng lúc càng say, càng khỏe và càng trong trẻo. Khúc hát đi đường bộ cùng tiếng vó ngựa dồn vang vách núi, lúc đi đường thủy với tiếng sóng vỗ vang mạn thuyền, khi lại bay lên cao nhìn ngắm cánh đồng, non ngàn theo đàn chim én... Tiếng đàn, tiếng hát, tiếng nhạc xóc bỗng đánh thức núi rừng ngàn năm ngủ im lìm, con người thấy mình bỗng lớn dậy giữa đất trời, giữa mùa xuân, lòng tràn đầy hi vọng ở cuộc sống ngày mai.

Trong sân hát hội, không có ai có thể phủ nhận được vai trò của các thiếu nữ Tày, đặc biệt là hai cô gái xinh đẹp hóa thân Nàng Hai là Gường Bóng Nguyệt và Sở Hằng Nga. Hai cô gái là người hát chính và quan trọng nhất trong lễ hội Nàng Hai. Qua những đêm luyện hát múa miệt mài trong căn nhà Nàng Hai, đến ngày hội chính, hai cô có thể đủ tự tin, đủ tài năng để thay mặt tất cả dân bản đứng ra hát những khúc ca cầu mùa cho thần linh trên cao nghe thấu. Các cô thiếu nữ trẻ lòng, xinh đẹp, hát mời Mẹ Trăng xuống bản bằng giọng hát trong ngần như tâm hồn của các cô vậy:

Bưởng rại soong Giả mà thâng Bưởng soa noọng sao chào đón Hai Há lạy mởi bại Mẻ Nàng Khóa khoái mà dương gian dự hội

Dịch:

Bên trái hai mụ trở về Bên phải các con đón lấy

Hai Há lạy tạ các Mẹ Nàng Mau mau về nhân gian dự hội.

Hầu hết Lượn Hai được hát tập thể theo lối tự lượn. Thường thường trong cuộc hát Lượn Hai, Mẻ Cốc hát xướng, đoàn người hát hòa theo. Tuy nhiên,

Xem tất cả 164 trang.

Ngày đăng: 18/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí