Tỷ Lệ Người Được Hỏi Coi Các Yếu Tố Dưới Đây Là Nguyên Nhân Chủ Yếu Cản Trở Khả Năng Sáng Tạo Của Mình

Bên cạnh đó, Việt Nam chưa mạnh dạn thu hút đội ngũ trí thức Việt Kiều tham gia vào bộ máy quản lý công. Cho đến nay, những Việt Kiều hoặc những chuyên gia nước ngoài tham gia vào bộ máy quản lý công ở Việt Nam là có những rất hiếm hoi. Tuy nhiên, họ chũng chỉ tham gia quản lý ở những cơ sở đào tạo và nghiên cứu khoa học công lập chứ chưa có tiền lệ tham gia vào bộ máy quản lý hành chính nhà nước. Những rào cản chính trị là nguyên nhân lớn nhất làm giảm cơ hội phát triển nguồn nhân lực CLC nói chung ở Việt Nam.

b, Hạn chế trong trọng dụng nguồn nhân lực CLC

Ở nước ta, những chính sách liên quan tới việc sử dụng lao động như: chính sách tiền lương, tiền công, chính sách bảo hiểm xã hội và các chính sách chế độ khác… chưa tạo động lực cho người lao động tự phấn đấu để phát triển trình độ chuyên môn, tay nghề của mình trong quá trình công tác. Vì vậy, động lực để làm việc nhiệt tình không còn, nhiều người phải đi làm thêm ngoài chuyên môn, thậm chí phải bỏ nghề để đi làm những dịch vụ giản đơn. Những kiến thức được đào tạo ít được sử dụng, sự mai một là điều khó tránh khỏi. "Hao mòn" hữu hình và vô hình của lao động trí tuệ đang làm chúng ta mất đi một nguồn sức mạnh quý giá phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Đặc biệt, đại bộ phận lao động trí óc ở nước ta hiện nay đang phải làm việc trong những điều kiện hết sức thiếu thốn về cơ sở vật chất và trang thiết bị. Mức đầu tư của nhà nước cho khoa học tuy hàng năm có tăng nhưng chưa bao giờ vượt qua mức 1% GDP.

Năm 2003, mức đầu tư của Nhà nước cho khoa học là khoảng từ 0,8 - 0,9% GDP, đây là mức đầu tư còn rất thấp so với yêu cầu phát triển để theo kịp các nước trong khu vực. Chi phí bình quân cho một cán bộ khoa học - công nghệ của nước ta mới ở mức dưới 1.000 USD/năm. Mức đầu tư đó chỉ đủ để duy trì sự tồn tại của các cơ quan khoa học công nghệ.

Với mức đầu tư rất thấp, nên chỗ làm việc chật chội, thiết bị lạc hậu, phòng thí nghiệm và dụng cụ thí nghiệm thiếu, không có đủ thông tin và tài liệu nghiên cứu... Điều kiện làm việc như vậy đã không tạo được môi trường thuận

lợi cho việc phát huy tiềm năng trí tuệ của mỗi cá nhân cũng như tập thể, dẫn đến tình trạng "lãng phí ngầm" chất xám rất lớn hiện nay.

Bên cạnh đó, chúng ta vẫn chưa có những chính sách, quy định thực sự rõ ràng về việc trọng dụng và đãi ngộ những người có trình độ học vấn cao; các chính sách còn thiên về bình quân chủ nghĩa, nên còn nhiều bất hợp lý. Ở các nước phát triển, những chuyên gia giỏi sau 25 - 30 năm công tác thường được xếp bậc trên cùng của thang lương nghề nghiệp. Nhưng ở Việt Nam, vị trí cao nhất trong thang lương nghề nghiệp hầu như giành cho người có chức vụ cao, nên không ít nhà khoa học sau khi thành đạt đã xa rời con đường khoa học để đảm nhận chức vụ hành chính. Vì vậy, cần phải có một chính sách đãi ngộ hợp lý, để cho đội ngũ khoa học sống bằng khoa học một cách tự tin hơn.

Một điểm đáng nói nữa là tình trạng sử dụng nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật không đúng với ngành nghề được đào tạo, không đúng hoặc dưới khả năng được đào tạo còn phổ biến. Hiện nay, chỉ có khoảng hơn 70% cán bộ có trình độ chuyên môn kỹ thuật được sử dụng đúng ngành nghề đào tạo. Nhiều cơ sở hoặc doanh ngiệp đã sử dụng cả những sinh viên tốt nghiệp đại học vào làm công việc của công nhân kỹ thuật. Cách sử dụng như trên vừa lãng phí công sức đào tạo, mà hiệu quả của số lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật (vốn đã ít) của nước ta không được phát huy và phát triển trong công việc.

Như vậy, những chính sách sử dụng lao động của chúng ta hiện nay chính là một trong những nguyên nhân siết chặt sự sáng tạo, sự phát triển của lao động có chuyên môn kỹ thuật (đặc biệt là của đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ). Với cơ chế, chính sách này, lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật sẽ không có động lực để tự bồi dưỡng, nâng cao trình độ, đáp ứng ngày càng tốt hơn những yêu cầu của công việc.

Đơn cử, đối với đội ngũ nhà khoa học, sáng tạo là tính chất nổi trội nhất trong hoạt động chuyên môn ở bất kỳ lĩnh vực nào. Sáng tạo có nhiều cấp độ khác nhau. Mỗi cấp độ sáng tạo của đội ngũ các nhà khoa học sẽ tác động trực tiếp tới tốc độ dẫn đường trong quá trình đổi mới và phát triển của từng quốc gia.

Đối với đội ngũ các nhà KHXH của một nước lạc hậu như Việt Nam, sáng tạo để góp phần hình thành nền KTTT là những sáng tạo nhằm tác động tới nhận thức của mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội về sự tất yếu của việc phải thay đổi triệt để tư duy, cách nghĩ, cách làm trong mọi hoạt động của đời sống xã hội. Tư duy cũ, cách nghĩ cũ, cách làm cũ đã kìm hãm sự phát triển của cả dân tộc cần phải thay bằng tư duy mới, cách nghĩ mới, cách làm mới phù hợp với xu hướng phát triển của nền KTTT.

Tuy nhiên, hoạt động nghiên cứu khoa học ở Việt Nam hiện nay mặc dù đã được quan tâm, khuyến khích phát triển nhưng chủ yếu vẫn đang bị chi phối bởi những yếu tố làm cản trở và triệt tiêu khả năng sáng tạo của người nghiên cứu.

Viện Nghiên cứu dư luận xã hội đưa ra 6 nguyên nhân được cho là những yếu tố cản trở khả năng sáng tạo trong hoạt động nghiên cứu khoa học hoặc sáng tạo văn học, nghệ thuật: 1. Kiến thức, hiểu biết của bản thân; 2. Chính sách đầu tư, khuyến khích hoạt động nghiên cứu khoa học và hoạt động sáng tác văn học, nghệ thuật của Đảng và Nhà nước chưa hợp lý; 3. Cơ chế, chính sách quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học bất cập, chưa có môi trường dân chủ cần thiết cho hoạt động sáng tạo; 4. Chưa có môi trường dân chủ cần thiết cho hoạt động sáng tạo; 5. Hạn chế về mặt pháp luật, các cơ chế bảo vệ tác quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ; 6. Cơ chế, chính sách quản lý hoạt động báo chí, văn học, nghệ thuật bất cập.

Khi điều tra 2 nhóm đối tượng khác nhau về mức độ ảnh hưởng của 6 nguyên nhân trên, Viện đã có những kết quả đánh giá như sau:

Nhóm những người có học vấn đại học trở lên thuộc 6 loại hình cơ quan công tác (cơ quan đảng; cơ quan chính quyền; đoàn thể, hội; cơ quan giảng dạy, nghiên cứu khoa học; cơ quan báo chí, thông tin đại chúng và các cơ quan khác) tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cho rằng nguyên nhân 1,2,3 là nguyên nhân chủ yếu cản trở khả năng sáng tạo của họ.

Bảng 2.23: Tỷ lệ người được hỏi coi các yếu tố dưới đây là nguyên nhân chủ yếu cản trở khả năng sáng tạo của mình

STT

Nguyên nhân cản trở khả năng sáng tạo

Tỷ

lệ

1

Kiến thức, hiểu biết của bản thân.

47%

2

Chính sách đầu tư, khuyến khích hoạt động nghiên cứu khoa

học và hoạt động sáng tác văn học, nghệ thuật của Đảng và Nhà nước chưa hợp lý.

45%

3

Cơ chế, chính sách quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học bất cập, chưa có môi trường dân chủ cần thiết cho hoạt động sáng

tạo.

45%

4

Chưa có môi trường dân chủ cần thiết cho hoạt động sáng tạo.

37%

5

Hạn chế về mặt pháp luật, các cơ chế bảo vệ tác quyền tác giả,

quyền sở hữu trí tuệ.

26%

6

Cơ chế, chính sách quản lý hoạt động báo chí, văn học, nghệ

thuật bất cập.

23%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 265 trang tài liệu này.

Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam - 19

Nguồn: [151, tr. 14]

Nhóm những người có học hàm, học vị từ phó giáo sư, tiến sỹ trở lên cho rằng nguyên nhân 3,2,4 lần lượt là những nguyên nhân chủ yếu cản trở khả năng sáng tạo của họ.

Bảng 2.24: Tỷ lệ người được hỏi coi các yếu tố dưới đây là nguyên nhân chủ yếu cản trở khả năng của mình (trong nhóm người có học hàm,

học vị từ phó giáo sư, tiến sỹ trở lên)


STT

Nguyên nhân cản trở khả năng sáng tạo

Tỷ

lệ

1

Cơ chế, chính sách quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học bất

cập.

70%

2

Chính sách đầu tư, khuyến khích hoạt động nghiên cứu khoa

62%



học và hoạt động sáng tác văn học, nghệ thuật của Đảng và Nhà

nước chưa hợp lý.


3

Chưa có môi trường dân chủ cần thiết cho hoạt động sáng tạo.

53%

4

Kiến thức, hiểu biết của bản thân.

28%

5

Hạn chế về mặt pháp luật, các cơ chế bảo vệ tác quyền tác giả,

quyền sở hữu trí tuệ.

21%

6

Cơ chế, chính sách quản lý hoạt động báo chí, văn học, nghệ

thuật bất cập.

19%

Nguồn: [151, tr. 14]

Từ những kết quả điều tra trên, Viện Nghiên cứu dư luận xã hội đã có nhận xét: “Những người có học hàm, học vị cao (từ phó giáo sư, tiến sỹ trở lên), công việc thường xuyên đòi hỏi phải có sự sáng tạo, do đó, ý kiến của nhóm đối tượng này về nguyên nhân cản trở sự sáng tạo trong nghiên cứu khoa học có khả năng sát thực nhất. Do đó, có thể nói, có 3 nguyên nhân lớn cản trở sức sáng tạo của trí thức Việt Nam là: 1. Cơ chế chính sách quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học bất cập; 2. Chính sách đầu tư và khuyến khích hoạt động nghiên cứu khoa học chưa hợp lý; 3. Chưa có môi trường dân chủ cần thiết cho hoạt động sáng tạo”[168, tr. 15]. Chính những nguyên nhân kể trên đã làm cho hoạt động nghiên cứu của các nhà khoa học bị gò ép, không được khuyến khích tự do sáng tạo và nặng tính áp đặt.


Kết luận chương 2

Chủ trương từng bước tiếp cận KTTT đã được đề ra ở Việt Nam từ năm 2001. Để hiện thực hoá chủ trương đó, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng tới việc phát triển nguồn nhân lực CLC. Từ năm 2001 đến nay, việc phát triển nguồn nhân lực CLC ở Việt Nam đã đạt được một số những kết quả bước đầu đáng khích lệ. Tuy nhiên, những kết quả đó chỉ được đặt trong sự so sánh khép kín đối với chính nguồn nhân lực CLC của Việt Nam. Nếu so sánh với thế giới và so sánh với yêu cầu của quá trình phát triển đột phá để hình thành nền KTTT thì nguồn nhân lực CLC ở Việt Nam còn bộ lộ những hạn chế lớn: Mất cân đối giữa phát triển về số lượng và phát triển về chất lượng nguồn nhân lực trình độ đại học; (2) Không bắt kịp và bị bỏ lại quá xa trong phát triển cả về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trình độ đại học so với xu thế hình thành nền KTTT của thời đại ngày nay. Những hạn chế đó do tác động của sự lạc hậu và sự cứng nhắc trong quá trình đào tạo và quá trình sử dụng nguồn nhân lực CLC ở Việt Nam thời gian qua. Với thực trạng phát triển nguồn nhân lực CLC như trên, Việt Nam không thể tạo được những bước phát triển đột phá để hình thành nền KTTT và luôn luôn tụt hậu và ngày càng tụt hậu xa hơn so với trình độ phát triển của thế giới. Cách thức phát triển nguồn nhân lực CLC ở Việt Nam hiện nay vẫn là một cách thức phát triển tuần tự. Việt Nam chưa thực sự tìm ra được điểm nhấn để có bước bật nhảy thực sự trong phát triển nguồn nhân lực CLC nhằm tạo động lực quan trọng cho quá trình hình thành nền KTTT.


Chương 3‌

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO ĐỂ HÌNH THÀNH NỀN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM

3.1. QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO ĐỂ HÌNH THÀNH NỀN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM

3.1.1. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện quan trọng hàng đầu góp phần hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt nam

Nhân lực không chỉ đơn thuần là một trong những nguồn lực sản xuất, mà đó còn là chủ thể có khả năng tổ chức, sử dụng các nguồn lực khác, là nhân tố chủ động động tác động và làm chủ các hoạt động sản xuất và thị trường. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hoá đang diễn ra nhanh chóng và xu thế phát triển KTTT, lấy tri thức làm động lực phát triển hiện nay, vai trò của nguồn nhân lực CLC với tư cách là bộ phận hạt nhân, có ý nghĩa quyết định chất lượng của tổng thể nguồn nhân lực, càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết đối với sự phát triển. Thực tiễn đã chứng minh rằng, nguồn gốc giàu có của một quốc gia chính là tri thức và chỉ có con người mới có khả năng nắm giữ tri thức và sản sinh tri thức. Quốc gia nào có chiến lược đúng đắn trong việc phát triển nguồn nhân lực CLC dựa trên nền tảng tri thức hiện đại thì nền kinh tế của quốc gia đó sẽ gia tăng mạnh mẽ để hình thành nền KTTT.

Đồng thời, trong thời đại KTTT toàn cầu hoá, lực lượng sản xuất sẽ không ngừng phát triển và ngày càng mang tính quốc tế hoá cao. Điều này thể hiện ở chỗ, cùng với những thuộc tính và đặc trưng của tri thức, nguồn nhân lực CLC vận động và phát triển không ngừng theo hướng trao đổi, hợp tác song phương hay đa phương giữa các quốc gia về nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao các thành tựu KH – CN hiện đại để tạo ra các sản phẩm có hàm lượng tri thức cao. Đây chính là cơ hội, là tiền đề thuận lợi để các nước chậm phát triển như Việt Nam có thể bỏ qua những giai đoạn phát triển lịch sử quá độ nhất định,

tiếp cận với KTTT. Như vậy, việc phát triển nguồn nhân lực CLC trong bối cảnh ngày nay sẽ giúp các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển như Việt Nam nắm bắt các tri thức mới của thời đại, để đi nhanh, đi tắt, đón đầu, rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước phát triển. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực CLC phải được coi là sự lựa chọn hàng đầu của những quốc gia đang phát triển muốn theo kịp xu hướng phát triển KTTT của thời đại ngày nay.

3.1.2. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam phải chú trọng toàn diện về số lượng, cơ cấu và chất lượng

Muốn phát triển nguồn nhân lực CLC để hình thành nền KTTT phải có quan điểm toàn diện. Quan điểm toàn diện yêu cầu việc phát triển nguồn nhân lực CLC phải chú trọng cả về số lượng, cơ cấu và chất lượng.

Về số lượng, nguồn nhân lực CLC cần thiết phải có sự gia tăng phù hợp với yêu cầu của quá trình hình thành nền KTTT. Nếu trong nền KTCN, nguồn nhân lực CLC có số lượng ít, mang tính đại diện tinh hoa thì trong quá trình hình thành nền KTTT, nguồn nhân lực CLC cần mang tính đại chúng và lực lượng lao động nói chung cần phải được tri thức hoá. Nguồn nhân lực CLC ở Việt Nam hiện nay mặc dù đang có tốc độ gia tăng nhanh nhưng vẫn chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng lực lượng lao động. Vì vậy, việc gia tăng phù hợp về số lượng là một trong những nội dung cần thực hiện trong quá trình phát triển nguồn nhân lực CLC để hình thành nền KTTT ở Việt Nam.

Bên cạnh việc gia tăng phù hợp về số lượng, việc điều chỉnh hợp lý cơ cấu nguồn nhân lực CLC cũng là một nội dung không thể thiếu trong quá trình phát triển lực lượng này. Trong cơ cấu nguồn nhân lực CLC, cần phải xác định được lực lượng nòng cốt nhất là lao động tri thức, trong đó, đội ngũ nhân lực KH – CN giữ vai trò chủ chốt vì họ chính là hạt nhân của nền KTTT. Trong đội ngũ lao động tri thức, đội ngũ giảng viên đại học cũng là một lực lượng chủ chốt cần phải được quan tâm phát triển. Việc điều chỉnh cơ cấu nguồn nhân lực CLC cần đặc biệt chú trọng tới việc điều chỉnh theo hướng gia tăng đối với hai lực lượng kể trên. Hai lựclượng này sẽ là hai lực lượng nòng cốt giúp Việt Nam có

Xem tất cả 265 trang.

Ngày đăng: 06/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí