Khả Năng Thu Hồi Nợ Bán Lẻ Quá Hạn


RRTD cá biệt: là rủi ro xảy ra đối với một khoản vay của một khách hàng cụ thể, thuộc một nhóm ngành cụ thể. RRTD cá biệt xảy ra do một số nguyên nhân: Thứ nhất, đặc điểm ngành và loại hình kinh tế của khách hàng; Thứ hai, tình hình tài chính của khách hàng; Thứ ba, khả năng quản trị của khách hàng; Thứ tư, đạo đức của khách hàng; Thứ năm, các nguyên nhân khác...

RRTD hệ thống: là rủi ro xảy ra không chỉ đối với một ngân hàng mà mang tính chất hệ thống, lan truyền đến cả ngànhngân hàng. Nguyên nhân của rủi ro hệ thống bao gồm: sự thay đổi chính sách thể hiện ở chính sách tài chính tiền tệ, chính sách thuế; các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế ảnh hưởng đến rủi ro hệ thống bao gồm: tỉ lệ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), chỉ số chứng khoán, chỉ số giá tiêu dùng; luật pháp và môi trường đầu tư và các yếu tố bất khả kháng.

Để hạn chế rủi ro này, thay vì đa dạng hóa hoạt động tín dụng, ngân hàng cần phải thực hiện tốt công tác dự báo tình hình kinh tế vĩ mô, các tác động của lạm phát, thất nghiệp, các chính sách sắp đến của Chính phủ và chủ động đưa ra các giải pháp quản trị rủi ro phù hợp.

2.1.3 Khái niệm nợ quá hạn, nợ xấu

Căn cứ thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của NHNN về việc Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và Thông tư 09/2014/TT-NHNN ngày 18/03/2014 V/v Sửa đổi bổ sung một số điều của thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của NHNN, dư nợ cho vay của ngân hàng được phân loại thành 5 nhóm cơ bản như sau: Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn): Là các khoản nợ trong hạn hoặc quá hạn dưới

10 ngày và được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi.

Nhóm 2 (Nợ cần chú ý): Là các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày và được đánh giá có khả năng thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi nhưng khả năng trả nợ đã có dấu hiệu suy giảm.

Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn): Là các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn và có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi,bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ


cấu lại.

Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ): Là các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là khả năng tổn thất cao,bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày; Các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại.

Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn): Là các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn bao gồm các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý; Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại.

Nợ quá hạn:là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn (từ nhóm 2 đến nhóm 5). Nợ xấu: là các khoản nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5.

Các cơ quan thực thi pháp luật hoạt động chưa thật hiệu quả: Một số cơ quan có thẩm quyền tương đối lỏng lẻo trong công tác cấp phép và quản lý doanh nghiệp. Sự yếu kém của các cơ quan tư pháp dẫn đến việc công chứng tài sản thế chấp sai pháp luật.

Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của NHNN: Bên cạnh những cố gắng và hiệu quả đạt được, hoạt động thanh tra Ngân hàng và đảm bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng. Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới, thanh tra Ngân hàng còn chưa theo kịp. Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát lạc hậu, chậm được đổi mới. Vai trò kiểm toán chưa được phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu.

2.2 Các chỉ tiêu xác định RRT BL

2.2.1 T lệ nợ bán lẻ quá hạn

Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn. Trong TDBL, nợ quá hạn là không thể tránh khỏi nhưng nếu nợ quá hạn vượt quá tỷ lệ cho phép sẽ dẫn đến mất khả năng thanh toán của ngân hàng. Nợ bán lẻ (NBL) quá hạn có nhiều mức độ khác nhau, căn cứ vào tính chất rủi ro, chỉ tiêu phản ánh NBL quá hạnnhư sau:


Tỷ lệ NBL quá hạn =

Số dư NBL quá hạn

x 100%

Tổng dư NBL

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 73 trang tài liệu này.

Các giải pháp để hạn chế rủi ro tín dụng bán lẻ tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Cần Thơ - 3

Tỷ lệ NBLquá hạn thể hiện tỷ trọng các khoản NBL mà khách hàng có dấu


hiệu/thực sự suy giảm khả năng trả nợ, không thu hồi được nợ gốc và lãi đúng hạn trong danh mục cho vay của ngân hàng. Tỷ lệ NBL quá hạn là chỉ tiêu cơ bản cho biết chất lượng hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Tỷ lệ NBL quá hạn cao chứng tỏ chất lượng TDBL thấp và ngược lại.

2.2.2 T lệ khách hàng có nợ quá hạn



Tỷ lệ khách hàng có NBL quá hạn =

Tổng số khách hàngcó dư

NBL quá hạn


x 100%

Tổng số khách hàng có dư

NBL

Chỉ tiêu này cho biết cứ 100 khách hàng thì có bao nhiêu khách hàng đã quá hạn. Nếu tỷ lệ này cao, phản ánh chính sách tín dụng của ngân hàng không hiệu quả. Ngoài ra, nếu chỉ tiêu này thấp hơn chỉ tiêu “tỷ lệ NBL quá hạn”, cho biết NBL quá hạn tập trung vào số ít khách hàng lớn. Ngược lại, thì NBL quá hạn tập trung vào số đông khách hàng nhỏ.

2.2.3 Cơ cấu nợ bán lẻ quá hạn


Tỷ lệ NBL ngắn hạn quá hạn

=

Tỷ lệ NBL trung và dài hạn quá hạn =

NBL ngắn hạn quá hạn

x 100%

Nợ ngắn hạn

NBL trung và dài hạn quá hạn

x 100%

NBL trung và dài hạn

2.2.4 Khả năng thu hồi nợ bán lẻ quá hạn



NBLquá hạn có khả năng thu hồi=

NBL quá hạn có khả năng thu

hồi


x 100%


NBL quá hạn


2.2.5 T lệ nợ xấu



Tỷ lệ nợ xấu của NBL =

Số dư nợ xấu của

NBL


x 100%


Tổng dư NBL


Tỷ lệ này thể hiện tỷ trọng các khoản NBL được đánh giá là không thể thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi, có khả năng tổn thất cao trong danh mục TDBL của ngân hàng.

2.2.6 ệ số rủi ro tín dụng bán lẻ


Hệ số RRTDBL=

Tổng dư NBL

x 100%

Tổng tài sản có

Hệ số này cho ta thấy tỷ trọng của khoản mục TDBL trong tài sản có, khoản mục TDBL trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận sẽ lớn nhưng đồng thời RRTD


cũng rất cao. Thông thường, tổng dư nợ cho vay của ngân hàng được chia thành ba nhóm: (1) Nhóm dư NBL có chất lượng xấu, chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư NBL của ngân hàng; (2) Nhóm dư NBL có chất lượng tốt, cũng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư NBLcủa ngân hàng; (3) Nhóm dư NBL có chất lượng trung bình, chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư NBL của ngân hàng.

2.2.7 T lệ xóa nợ của nợ bán lẻ


Tỷ lệ xóa nợ của NBL =

Các khoản xóa NBL ròng

x 100%

Tổng dư NBL

Các khoản xóa NBLròng = Các khoản xóa NBL- Số tiền đã thu hồi được.

Trong đó, các khoản xóa nợ là các khoản NBL quá hạn đã bị xóa và bù đắp bởi các khoản dự phòng RRTD.Như vậy, nếu Ngân hàng có tỷ lệ xóa nợ của NBL cao chứng tỏ RRTDBL cao.

2.2.8 T lệ trích l p dự ph ng rủi ro tín dụng bán lẻ


Tỷ lệ trích lập dự phòng RRTDBL=

Dự phòng rủi ro trích lập

x 100%

Tổng dư NBL

Theo NHNN Việt Nam (2013), trích lập dự phòng RRTD là việc hạch toán vào chi phí hoạt động một số tiền để dự phòng cho các tổn thất có thể xảy ra đối với các khoản nợ của các TCTD, bao gồm dự phòng cụ thể là số tiền trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra đối với từng khoản nợ cụ thể và dự phòng chung là số tiền trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra nhưng chưa xác định được khi trích lập dự phòng cụ thể.

Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro TDBL thể hiện tỷ lệ tổn thất ước tính của danh mục TDBL của Ngân hàng.Tỷ lệ này được tính toán dựa trên quy mô các nhóm nợ trong danh mục TDBL và giá trị các TSĐB tương ứng. Tỷ lệ này phản ánh cụ thể hơn mức độ rủi ro danh mục TDBL của ngân hàng do tính toán đến khả năng tổn thất của từng nhóm nợ và khả năng thu hồi nợ từ các TSĐB của từng khoản NBL.

2.3. Khái niệm và đặc điểm của tín dụng bán lẻ

2.3.1 Khái niệm tín dụng bán lẻ

a. Tín dụng ngân hàng thương mại

Hiện nay, có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm tín dụng ngân hàng:

- Theo luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 của Quốc hội nước Cộng


hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 16/06/2010: Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.

- Với cách tiếp cận đơn giản: Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định.

- Với cách tiếp cận phức tạp: Tín dụng tên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng, là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện gốc và lãi cho bên vay khi đến hạn thanh toán.

Qua các cách tiếp cận trên, có thể kết luận rằng:

- Tín dụng ngân hàng là quan hệ giữa các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng với các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế mà ngân hàng thương mại đóng vai trò trung gian. Ngân hàng thương mại huy động vốn bằng tiền của các tổ chức, cá nhân và cho vay đối với các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế.Ngân hàng thương mại vừa là người đi vay vừa là người cho vay. Với tư cách đi vay hay còn gọi là huy động vốn, ngân hàng thương mại nhận tiền gửi bằng cách phát hành thẻ tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi. Từ nguồn vốn huy động được, ngân hàng thương mại cho vay (cấp tín dụng) các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế.

- Hoạt động tín dụng có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế vì nó chính là nguồn hỗ trợ cho yêu cầu phát triển, đáp ứng vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt kịp thời, khắc phục nhược điểm của các hình thức tín dụng khác trong lịch sử.

- Tín dụng là hoạt động đem lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Lãi suất thu được từ tín dụng sẽ dùng để bù đắp chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh, chi phí quản lý, chi phí thuế và các khoản chi phí khác. Với vai trò quan trọng như vậy, NHTM đã có nhiều hình thức tín dụng khác nhau để đáp ứng nhu cầu của các tổ chức kinh tế và các cá nhân nhằm đem lại lợi nhuận cao nhất.


b. Tín dụng bán lẻ

Theo Luật Các tổ chức tín dụng, các loại hình cấp tín dụng được quy định chung, chưa có định nghĩa và giải thích rò ràng về tín dụng bán buôn và tín dụng bán lẻ. Tại khoản 2 Điều 50 Luật Các tổ chức tín dụng có ghi “Tổ chức tín dụng cho các tổ chức cá nhân vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đời sống” được bao hàm cả hai hoạt động là tín dụng bán buôn và tín dụng bán lẻ.

Trong thương mại hàng hóa, hiểu một cách đơn giản, bán buôn là hình thức mua bán hàng hóa thông qua các trung gian, đại lý để bán với khối lượng lớn, giá bán thấp.Ngược lại, bán lẻ là hình thức bán hàng mà người bán trực tiếp bán cho người là người sử dụng, tiêu dùng với khối lượng bán nhỏ, lẻ, giá bán cao.

Trong hoạt động tín dụng, hiện nay có hai cách hiểu khác nhau vềtín dụng bán buôn và tín dụng bán lẻ.

- Thứ nhất, tín dụng bán buôn được hiểu là các khoản cho vay thông qua thị trường tài chính (thị trường tiền tệ liên ngân hàng) hoặc cho vay đối với các trung gian tài chính khác (các ngân hàng thương mại, quỹ, các tổ chức làm đại lý ủy thác), mà không căn cứ vào quy mô giá trị khoản vay. Còn tín dụng bán lẻ bao gồm những khoản cho vay trực tiếp đến người vay cuối cùng với các khoản cho vay có quy mô giá trị khác nhau.Người vay cuối cùng ở đây được xác định là người trực tiếp sử dụng vốn vay đưa vào đầu tư mà không thực hiện việc cho vay tiếp tới các đối tượng khác.

- Thứ hai, tín dụng bán buôn bao gồm các khoản cho vay thông qua thị trường tài chính hoặc cho vay đối với các trung gian tài chính, cộng thêm những khoản cho vay đối với công ty và doanh nghiệp lớn với quy mô giá trị khoản vay đạt ở mức quy định cụ thể nào đó tùy theo từng nước và từng thời kỳ. Tín dụng bán lẻ bao gồm tất cả các khoản cho vay trực tiếp đến người vay cuối cùng là các cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp siêu nhỏ, cộng thêm các khoản cho vay đối với doanh nghiệp lớn nhưng quy mô giá trị khoản vay nhỏ hơn một mức giá trị cụ thể nào đó.

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả đưa ra khái niệm về tín dụng bán lẻ như sau: Tín dụng bán lẻ là việc cấp tín dụng (cho vay, chiết khấu, bảo lãnh...) trực tiếp cho các khách hàng là cá nhân, hộ gia đình và doanh nghiệp nhỏ và vừa.


2.3.2. Đặc điểm của tín dụng bán lẻ

- Đối tượng khách hàng đa dạng, phức tạp

Đối tượng khách hàng của tín dụng bán lẻ chủ yếu là các hộ gia đình, cá nhân, doanh nghiệp nhỏ... Đây là các thành phần kinh tế năng động, nhạy bén, nhưng kém ổn định và thiếu bền vững trong kinh doanh. Những người có thu nhập cao thường có xu hướng vay nhiều hơn. Với họ, việc vay mượn chỉ là công cụ để đạt được mức sống như mong muốn.Và việc trả nợ cho ngân hàng cũng dựa trên ý thức trách nhiệm hoàn trả đầy đủ và đúng hạn của khách hàng.

- Nguồn trả nợ khó chứng minh, khả năng tài chính không ổn định,thiếu minh

bạch

Khi nhận được một đơn xin vay của cá nhân, hộ gia đình. Đầu tiên một cán bộ

tín dụng cần làm là phải đánh giá khả năng trả nợ của đơn xin vay đó. Mức thu nhập và sự ổn định trong thu nhập, hay phương án kinh doanh phục vụ cho đời sống gia đình có hiệu quả không là những thông tin rất quan trọng. Nhiều khách hàng có nhu cầu vay vốn lại có thu nhập thấp dưới mức trung bình, việc làm và chỗ ở của họ ít ổn định, nếu cho đối tượng khách hàng này vay, ngân hàng sẽ có những khoản vay nhỏ, rủi ro hơn. Như vậy, việc đánh giá khả năng tài chính của một khách hàng là rất khó khăn, chất lượng thông tin tài chính thường không cao.Bởi lẽ, một cá nhân, một hộ gia đình có thể dễ dàng hơn trong việc giữ kín thông tin của mình so với các doanh nghiệp.

- Quy mô khoản vay nhỏ lẻ, số lượng món vay lớn, rủi ro cao nhưngphân tán được rủi ro

Tín dụng bán lẻ chủ yếu cung cấp cho các cá nhân và hộ gia đình nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh nhỏ, đời sống. Do vậy, các khoản vay này cần tiến hành các thủ tục vay qua nhiều khâu, việc quản lý khoản vay thường chắp vá và thời gian quản lý có thể kéo dài trong nhiều năm.

Nhu cầu được cấp tín dụng bán lẻ của khách hàng chịu tác động mạnh và phụ thuộc lớn vào chu kỳ kinh tế; tăng mạnh trong thời kỳ nền kinh tế tăng trưởng tốt, thu nhập cao, chỉ tiêu tăng, đầu tư cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ sinh lời cao và ngược lại.Cho vay tín dụng bán lẻ được đánh giá là tài sản rủi ro nhất trong danh mục tài sản của ngân hàng. Tuy nhiên, mỗi giao dịch tín dụng bán lẻ thường có giá


trị nhỏ, nên mứcảnh hưởng của các khoản vay này cũng không lớn đối với hoạt động tổng thể của ngân hàng.Số lượng khách hàng lớn, nên rủi ro được phân tán cho nhiều người.

- Tài sản đảm bảo phong phú, phức tạp về tính chất pháp lý

Ngân hàng có thể cho vay không có tài sản đảm bảo. Trong trường hợp này, sự đảm bảo cho khoản vay là sự tin tưởng vào chính ý thức trả nợ của người đi vay.Ngân hàng có thể cho vay có tài sản đảm bảo là tài sản hình thành từ vốn vay (như vay mua ô tô, vay mua nhà). Trong trường hợp này, ngân hàng cần tiến hành các thủ tục vay và các thủ tục về tài sản đảm bảo phức tạp hơn. Ngoài hình thức đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay, ngân hàng cũng nhận tài sản của chính người đi vay hoặc của bên thứ ba. Do vậy, ngân hàng khi nhận tài sản đảm bảo đó cần làm rò các mối quan hệ liên quan để tránh xảy ra tranh chấp.

- Các khoản tín dụng bán lẻ thường có chi phí vốn lớn và lãi suất chovay cao

Tín dụng bán lẻ thường là một trong các khoản mục tài sản mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng.Tuy nhiên, tín dụng bán lẻ lại có chi phí lớn hơn chi phí cho tín dụng bán buôn, với nhiều rủi ro. Do tín dụng bán lẻ có nguồn cho vay cũng từ chính nguồn huy động vốn từ dân cư, do vậy lãi suất cho vay trong tín dụng bán lẻ cũng cần phải cao tương ứng để đủ bù đắp chi phí huy động vốn.

2.4. Các sản phẩm tín dụng bán lẻ

Các sản phẩm tín dụng bán lẻ thường rất đa dạng và thiết kế tương tự sản phẩm tín dụng truyền thống với tên gọi khác nhau, nhưng nhìn chung đều thể hiện những nét đặc thù riêng của mỗi NHTM. Các sản phẩm này hầu hết áp dụng cho mọi đối tượng là khách hàng cá nhân và hộ gia đình. Các sản phẩm được thiết kế trên cơ sở nghiên cứu kỹ nhu cầu của khách hàng, hoạt động tín dụng bán lẻ của ngân hàng được chia làm 2 nhóm chủ yếu là nhóm cho vay có tài sản đảm bảo và nhóm cho vay không có tài sản đảm bảo.

2.4.1. Nhóm cho vay có tài sản đảm bảo

-Cho vay tiêu dùng: Các khoản cho vay cá nhân này thường phục vụ cho nhu cầu mua nhà, mua ô tô, mua sắm các đồ dùng gia đình đắt tiền hoặc bù đắp thiếu hụt trong chi tiêu hàng ngày như chi sinh hoạt gia đình, chi cho y tế, giáo dục, du lịch...

- Cho vay sản xuất kinh doanh: Là hoạt động ngân hàng cấp tín dụng đối với

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/06/2022