những quy định phức tạp, tinh vi như các nước. Cho nên, việc xây dựng hệ thống chính sách phi thuế quan của Việt Nam cũng phải quán triệt các nguyên tắc sau:
1. Sử dụng các biện pháp phi thuế quan bảo hộ cần đảm bảo khách quan.
2. Sử dụng các hàng rào phi thuế quan có tính phổ biến và dài hạn.
3. Không lạm dụng các biện pháp phi thuế quan.
4. Kết hợp các biện pháp phi thuế quan cổ điển và hiện đại.
5) Những biện pháp phi thuế quan áp dụng phải phù hợp với thông lệ quốc tế và những quy định cụ thể của ASEAN
6) Hệ thống phi thuế quan phải đủ sức mạnh để bảo vệ nền sản xuất non trẻ ở trong các nước song cũng phải tạo đà thúc đẩy các doanh nghiệp tự đổi mới, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên trường quốc tế.
Thực hiện các quy định của Hiệp định CEPT về các biện pháp phi thuế quan là lấy mốc hiện tại thì các cam kết chỉ có giảm, không thể có tăng, do vậy, chúng ta chỉ có thể công bố rõ về hệ thống các biện pháp phi thuế của Việt Nam sau khi đã xây dựng hoàn chỉnh hệ thống các biện pháp phi thuế quan của mình. Công việc này phải được tiến hành hết sức khẩn trương vì đây là một khối lượng công việc rất lớn và cần sự phối hợp của nhiều bộ, nhiều ngành liên quan…
1.1.4.3. Chính sách tỷ giá và quản lý ngoại hối:
Có thể bạn quan tâm!
- Kim Ngạch Xuất Khẩu Hàng Hoá Của Việt Nam Sang Thị Trường Asean Từ Năm 1996 Đến Nay:
- Cơ Cấu Các Mặt Hàng Xuất Khẩu Chính Của Việt Nam Với Các Nước Asean Giai Đoạn 2000-2005
- Dự Báo Kim Ngạch Xuất Khẩu Của Một Số Mặt Hàng Sang Thị Trường Asean Năm 2010
- Đảm Bảo Quyền Bình Đẳng Của Các Chủ Thể Tham Gia Hoạt Động Xuất Nhập Khẩu:
- Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường ASEAN từ nay đến 2010 - 11
- Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường ASEAN từ nay đến 2010 - 12
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ gía là nhân tố quan trọng trong việc thực hiện chiến lược hướng ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu. Cho nên việc điều chỉnh tỷ giá có lợi cho hoạt động kinh tế đối ngoại, đặc biệt cho xuất khẩu là vấn đề rất quan trọng. Nhà nước nên nới lỏng việc kiểm soát ngoại tệ sử dụng cho các hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp.
Hiện nay, tỷ giá giữa đồng VND và các ngoại tệ mạnh (chủ yếu là USD) được hình thành do quan hệ cung cầu trên thị trường liên ngân hàng, phản ánh gần sát với tỷ giá thực tế. Tỷ giá này có tác động nhất định thúc đẩy xuất khẩu trong điều kiện tỷ giá thực tế. Tỷ giá này có tác động nhất định thúc đẩy xuất khẩu trong điều kiện giá cả hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta đều giảm sút mạnh. Tuy nhiên, trong nhiều năm qua vẫn tồn tại sự chênh lệch giữa tỷ giá chính thức, tỷ
giá trên thị trường liên ngân hàng và tỷ giá thị trường. Điều đó, theo các nhà kinh tế là do: (1) thị trường liên ngân hàng ở nước ta chưa phát triển; (2) Quản lý ngoại hối còn chặt chẽ, thể hiện yêu cầu doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải kết hối ngoại tệ cao; (3) còn có sự khác biệt giữa lãi suất tín dụng nội tệ và ngoại tệ. Tình trạng trên dẫn đến nguồn cung cấp ngoại tế cho hợp đồng nhập khẩu hạn chế và tăng chi phí kinh doanh (do chênh lệch giữa giá mua và giá bán ngoại tệ).
Để khắc phục ảnh hưởng xấu tới hợp đồng xuất nhập khẩu trên, chính sách ngoại hối cần hướng tới;
- Thúc đẩy sự phát triển thị trường liên ngân hàng
- Tự do hoá lãi suất
- Chuyển từ neo giỏ VND vào USD sang sử dụng rổ tiền tệ.
1.1.4. Đổi mới cơ cấu xuất nhập khẩu:
Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, việc hoàn thiện chính sách thương mại theo hướng đổi mới cơ cấu hàng xuất khẩu cần phải căn cứ vào: thị trường xuất khẩu, khả năng sản xuất trong nước và hiệu quả (bao gồm hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế-xã hội). Trong ba yếu tố này, hiệu quả là yếu tố quan trọng hàng đầu trong sự lựa chọn cơ cấu mặt hàng xuất khẩu.
Nước ta là một quốc gia mới bắt đầu công nghiệp hoá, tụt hậu khá xa so với các nước trong khu vực nên trong quá trình hội nhập ASEAN, Việt Nam phải cố gắng khai thác triệt để những lợi thế và hạn chế các yếu kém của nền kinh tế.
Để hoà nhập có hiệu quả sau năm 2006, nền kinh tế Việt Nam phải có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang các ngành công nghiệp chế biến, ngành sử dụng công nghệ và kỹ thuật cao bằng những biện pháp khuyến khích thích hợp. Nếu không có chiến lược chuyển dịch cơ cấu, kinh tế của Việt Nam khó có được sức cạnh tranh trên thị trường ASEAN, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài
Với điều kiện của Vịêt Nam hiện nay, chúng ta phải tăng nhanh quy mô và đa dạng mặt hàng xuất khẩu. Một mặt cần tiếp tục tập trung cố gắng xuất khẩu một số sản phẩm thô mà nước ta có lợi thế mạnh sang thị trường ASEAN như gạo, cà
phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều, than đá, dầu thô… nhằm khai thác đất đai và lao động một cách đầy đủ hơn. Điều này sẽ giúp cho chúng ta có được các lợi ích là: thúc đẩy sử dụng các yếu tố sẵn có, sử dụng rộng rãi các điều kiện thuận lợi và kết hợp sự tác động tích cực lẫn nhau giữa yếu tố bên trong và bên ngoài. Đồng thời nhập khẩu nhiều hơn các mặt hàng như phân bón, máy móc, thiết bị…phục vụ cho chính quá trình sản xuất hướng vào xuất khẩu các sản phẩm có thế mạnh tạo đà phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở phát triển xuất khẩu sản phẩm thô, Việt Nam sẽ bị bất lợi nhiều hơn khi tham gia AFTA. Vì vậy, cần phải có chiến lược đa dạng hàng hoá xuất khẩu, chuyển hướng tăng dần trình độ chế biến hàng xuất khẩu sang các nước ASEAN nhằm tận dụng được các lợi ích mà AFTA đem lại. Mặt khác, Việt Nam phải hướng vào xuất khẩu các sản phẩm không truyền thống đáp ứng nhu cầu thị trường. Nghĩa là Việt Nam sẽ hướng vào sản xuất sản phẩm xuất khẩu có điều kiện sản xuất trong nước và dễ tìm kiếm thị trường như sản phẩm công nghiệp dệt, may mặc, giày da, đồ dùng gia đình…Phối hợp và tham gia vào phân công lao động và hợp tác quốc tế với các nước ASEAN và các nước phát triển để sản xuất sản phẩm hoặc chi tiết sản phẩm đòi hỏi công nghệ và kỹ thuật cao như công nghiệp cơ khí, điện tử, bưu chính viễn thông…
1.1.5. Nâng cao chất lượng người lao động
Lao động dồi dào, giá rẻ là một trong những thế mạnh của Việt Nam, nhưng do năng suất lao động Việt Nam thấp nên hiệu quả sử dụng lao động Việt Nam giảm bớt tính cạnh tranh. Để nâng cao chất lượng lao động, ngay từ bây giờ nhà nước phải có chính sách tăng ngân sách đầu tư cho giáo dục, có chính sách đãi ngộ nhân tài, trí thức cao cấp. Đặc biệt chú ý phần phân bổ kinh phí cho giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề. Đa dạng hoá nguồn đầu tư cho giáo dục của tư nhân và các nhà đầu tư nước ngoài để lập ra các trường quốc tế, trường dân lập, bán công…
- Thành lập các quỹ hỗ trợ phát triển giáo dục và đào tạo từ đóng góp của các doanh nghiệp sử dụng lao động đã qua đào tạo
- Khuyến khích các trường đại học, cao đẳng, trung học dạy nghề tham gia nghiên cứu, ứng dụng, bán sản phẩm và công trình nghiên cứu cho các doanh nghiệp, cho nhà nước
- Chính phủ có chương trình vận động các tổ choc chính phủ, phi chính phủ, các trường học quốc tế giúp vốn, kỹ thuật, chuyên gia, giảng viên để thành lập các trung tâm nghiên cứu tại Việt Nam và nguồn vốn học bổng nước ngoài.
- Tăng học bổng cho sinh viên ngành sư phạm để xây dung đội ngũ giáo viên
giỏi
- Xây dựng các trung tâm, các trường đào tạo công nhân lành nghề bậc cao
có khả năng tiếp cận với công nghệ hiện đại. Xây dung thử nghiệm một số trung tâm đào tạo cán bộ công nghệ trên cơ sở vay vốn và liên kết với công ty nước ngoài nhằm hiện đại hóa việc đào tạo và đáp ứng nhu cầu của công ty về chuyển giao công nghệ. Gấp rút đào tạo một số cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ cao đối với một số ngành công nghiệp quan trọng.
-Khuyến khích học sinh học ngoại ngữ và vi tính
Song song với đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chúng ta cần kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy những cán bộ kém phẩm chất, cán bộ không đủ năng lực thực hiện các nhiệm vụ của hoạt động quản lý kinh tế
1.1.6. Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
1.1.6.1. Chú trọng các biện pháp hỗ trợ vốn và tạo vốn cho doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu:
Nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu hiện nay rất lớn, vì vậy phải chú trọng đặc biệt tới các biện pháp hỗ trợ vốn và tạo vốn cho các doanh nghiệp. Cụ thể, nhà nước cần phải:
- Nhanh chóng tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu;
- Thành lập và quản lý các quỹ đầu tư, phát triển, cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu với điều kiện ưu đãi;
- Cho vay vốn với lãi suất ưu đãi nhất với nguyên tắc mức lãi suất của vốn vay này đảm bảo không được cao hơn mức lãi suất của vốn vay mà xí nghiệp nước ngoài sản xuất sản phẩm tương tự phải trả;
- Công bố danh mục các lĩnh vực ưu tiên đầu tư nước ngoài, nhất là đầu tư vào các ngành sản xuất hàng xuất khẩu đồng thời sửa đổi các thủ tục xét duyệt và cho phép đầu tư nước ngoài nhanh chóng và thuận lợi nhất. Trong đó, để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường ASEAN cần tạo điều kiện khuyến khích các doanh nghiệp ASEAN đầu tư nhiều hơn nữa vào Việt Nam
- Bên cạnh việc xây dựng chính sách phát triển của từng ngành, từng doanh nghiệp trên thị trường khu vực, Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam cần phải hỗ trợ để các doanh nghiệp tư nhân giữa các nước ASEAN có điều kiện tiếp xúc, trao đổi kinh nghiệm và xây dựng được những nền móng thâm nhập thị trường của nhau một cách vững chắc.
1.1.6.2. Hỗ trợ doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào
Sự hấp dẫn về giá cả là một ưu thế cạnh tranh rất lớn của một sản phẩm hàng hóa, bên cạnh sự đảm bảo về chất lượng. Để có giá cả hấp dẫn thì các chi phí trên một đơn vị sản phẩm phải được giảm thiểu ở mức tối đa. Điều này cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với hàng hoá Việt Nam khi mà chúng ta bước vào một “sân chơi chung”, trong một cơ cấu hàng hoá tương đối với nhiều nước có nền kinh tế mạnh hơn trong khu vực. Tuy nhiên, để giải bài toán này các doanh nghiệp Vịêt Nam gặp rất nhiều trở ngại, bởi có rất nhiều vấn đề nằm ngoài tầm ngắm của họ.
Các doanh nghiệp chỉ có thể giảm chi phí đầu vào bằng cách đầu tư công nghệ mới, thay đổi phương thức quản lý, triệt để tiết kiệm. Song họ không thể nào ngăn cản được sự gia tăng của chi phí đầu vào do sự “leo thang” giá cả của không ít loại vật tư, nguyên, nhiên liệu, điện, nước, cước phí giao thông, viễn thông…nhất là cước phí của các ngành nghề có tính chất độc quyền, ngoài ra các chi phí cho phí, lệ phí, thuế cũng gia tăng và nhức nhối nhất vẫn là khoản “tiêu cực phí” do sự sách nhiễu, cửa quyền của một số cán bộ Nhà nước thoái hoá, biến chất. Ngoài ra, sự rườm rà về thủ tục hành chính, thanh, kiểm tra chồng chéo, sự kéo dài thời gian cấp
phép kinh doanh, quyết định cho thuê đất, giải phóng mặt bằng…cũng làm gia tăng chi phí đầu vàoc của các doanh nghiệp.
Rõ ràng, việc giảm chi phí đầu vào đang là một vấn đề bức xúc quyết định khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam và sự sống còn của doanh nghiệp. Nhà nước cần tiếp tục điều chỉnh các chính sách có liên quan tới hoạt động thương mại nhằm đảm bảo một môi trường cạnh tranh bình đằng, sự thông thoáng trong hoạt động thương mại như:
- Chính sách ổn định giá cả về cung cấp các loại dịch vụ đồng thời Nhà nước cần phải điều chỉnh lại đơn giá của các ngành bưu chính viễn thông, điện lực…để loại bỏ giá cả độc quyền, không thể để cho lợi ích độc quyền làm tổn hại đến lợi ích chung.
- Chính sách miễn giảm, bổ sung sửa đổi hoặc xoá bỏ các loại phí, lệ phí, thuế chưa hợp lý.
- Chấn chỉnh hoạt động của ngành Hải quan nhằm ngăn chặn hành động nhiễu sách, cửa quyền của các cán bộ Hải quan
- Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong việc đăng ký cấp giấy phép kinh doanh, quyết định cho thuê đất và giải phóng mặt bằng
Bên cạnh nỗ lực của các doanh nghiệp trong việc chuyển giao công nghệ, Nhà nước cần đơn giản hoá thủ tục chuyển giao công nghệ và trao đổi chuyên gia. Nhà nước cần phát triển nhanh thị trường vốn vì quá trình đổi mới công nghệ không thể diễn ra nhanh chóng và hiệu quả nếu không có một thị trường vốn phát triển, huy động mọi nguồn vốn rất phong phú trong nhân dân, của các nhà đầu tư nước ngoài để cung ứng nhanh vốn với chi phí thấp cho các doanh nghiệp có dự án đầu tư khả thi và hiệu quả. Đồng thời, Nhà nước cần có những chính sách, cơ chế phù hợp để khai thác tối đa năng lực, trí tuệ của các nhà khoa học, các kỹ sư trong các trường đại học, viện nghiên cứu trong việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ tiến tiến vào sản xuất.
1.1.6.3. Hỗ trợ doanh nghiệp về thông tin, tiếp thị:
Trong điều kiện hội nhập và cạnh tranh quốc tế, vấn đề nắm bắt kịp thời, đầy đủ và chính xác các thông tin về thị trường, giá cả, hàng hoá, các đối thủ cạnh tranh… có vai trò cực kỳ quan trọng đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp, cho phép doanh nghiệp nắm bắt được cơ hội kinh doanh và đưa ra các biện pháp hữu hiệu để giảm bớt rủi ro, gia tăng hiệu quả.
Thời gian qua, do thiếu những thông tin về thị trường nên hoạt động kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam bị nhiều thua thiệt, hàng hóa luôn bị ép giá. Để gíup các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập có hiệu quả vào thị trường ASEAN, Nhà nước cần tăng cường và mở rộng các trung tâm thông tin cần thiết và cập nhật cho các doanh nghiệp. Các thông tin có thể lấy từ mạng Internet, hệ thống thông tin từ các cơ quan quản lý Nhà nước, các đại sứ quán, thông tin từ các tổ choc tư vấn quốc tế và nhiều kênh khác.
Ngoài việc cung cấp thông tin một cách đầy đủ, có hệ thống phục vụ bộ máy làm công tác ASEAN ở các bộ, các ngành thì cần phổ biến rộng rãi các thông tin về ASEAN, về các nước thành viên ASEAN nhằm giúp các tầng lớp nhân dân có nhận thức đúng đắn về đường lối hội nhập khu vực và thế giới của đất nước, trên cơ sở đó có thể tập hợp được những ý kiến đóng góp quý báu, góp phần vào việc đề ra chính sách, giải pháp cụ thể nhằm tham gia có hiệu quả hơn vào các hoạt động của ASEAN
1.1.6.4. Phối hợp chiến lược chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp với nỗ lực của các cơ quan quản lý Nhà Nước:
Sự thành công của các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu trong cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm còn liên quan đến các chính sách của Nhà nước, do đó cần coi trọng các vấn đề sau:
- Chính sách khuyến khích xuất khẩu sản phẩm có chất lượng: Nếu mặt hàng xuất khẩu có chất lượng cao thì hiệu quả đem lại lớn. Do đó, cần duy trì và mở rộng khuyến khích, nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu như: khuyến khích xuất khẩu sản phẩm qua chế biến, giảm tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm thô và hàng gia công. Sản phẩm có chất lượng cao được cấp dấu chất lượng và
công nhận sản phẩm và dịch vụ hợp chuẩn, được cấp và bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá, đồng thời có phần thưởng đối với sản phẩm có chất lượng tốt. Nghiêm cấm và xử lý nghiêm các trường hợp làm hàng giả, hàng kém chất lượng. Khuyến khích đầu tư đổi mới công nghệ vào các khâu có ý nghĩa quyết định tới chất lượng sản phẩm như: sản xuất và xử lý nguyên liệu chế biến, sản phẩm hoàn thiện.
- Hình thành chiến lược sản phẩm trên phạm vi quốc gia để định hướng phát triển chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp. Nhà nước cần ban hành các quy định rõ ràng về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm xuất khẩu, tốt nhất là dựa trên tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000. Cần có chính sách quy hoạch các sản phẩm xuất khẩu có chất lượng cao. Đặc biệt chú trọng các sản phẩm tinh chế từ dầu mỏ, mặt hàng gạo phẩm cấp cao, hàng cơ khí chế tạo, hàng may mặc hoặc sản phẩm có lợi thế so sánh để tạo sức cạnh tranh trên thị trường khu vực.
- Thực hiện khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhà nước khuyến khích cạnh tranh thông qua các chính sách điều tiết quan hệ kinh tế trong nước. Các chính sách này được hoàn thiện theo hướng nới lỏng dần, tạo ra sự bình đẳng thực sự giữa các thành phần kinh tế trong xuất khẩu. Trong đó, có chính sách thuế, chính sách nhập khẩu công nghệ, chính sách tín dụng ưu đãi đối với những doanh nghiệp cải tiến chất lượng sản phẩm. Đồng thời, hình thành các doanh nghiệp vệ tinh phục vụ cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Các doanh nghiệp này cũng được ưu đãi tương ứng với các doanh nghiệp xuất khẩu sử dụng các sản phẩm nguyên liệu hoặc bán thành phẩm từ các doanh nghiệp này
- Khuyến khích và hỗ trợ việc ra đời của các hiệp hội chất lượng ngành. Các tổ chức này sẽ là cầu nối cho các doanh nghiệp cả trên phương diện thông tin cũng như trong việc trực tiếp giúp đỡ các doanh nghiệp xây dựng và thực hiện chiến lược chất lượng sản phẩm.