Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường ASEAN từ nay đến 2010 - 11


đầu tư đúng hướng vào việc sản xuất sản phẩm. Thị trường ASEAN tuy là thị trường thống nhất nhưng rất đa dạng, gần gũi về địa lỳ và văn hoá nhưng do mức sống khác nhau, mỗi nước, mỗi dân tộc lại có các yêu cầu khác nhau về một loại sản phẩm. Cho nên, doanh nghiệp không những phải nắm bắt được các đặc điểm tiêu dùng chung của các thị trường mà còn phải tìm hiểu những nhu cầu riêng biệt của từng thị trường các nước. Doanh nghiệp có thể tìm hiểu thông tin về thị trường ASEAN bằng cách:

- Thông qua các kỳ tham quan hội chợ, triển lãm của khu vực và các hội chợ quốc tế trong khu vực để tìm hiểu, tiếp xúc trực tiếp với các doanh nghiệp và người tiêu dùng bản xứ;

- Thông qua ban thư ký ASEAN;

- Thông qua đại sứ quán Việt Nam ở các nước ASEAN và các đại sứ quán, lãnh sự quán của các nước ASEAN tại Việt Nam;

- Trên mạng Internet;

- Thông qua các trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp, trung tâm xúc tiến thương mại và Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam;

- Các đại lý mua hàng và các đại lý xuất nhập khẩu được công nhận;

- Sách báo tài liệu chỉ dẫn có liên quan đến các quốc gia ASEAN;

Ngoài việc tăng cường tìm hiểu thông tin về thị trường, bạn hàng, người tiêu dùng các nước ASEAN thì một việc cũng không kém phần quan trọng là doanh nghiệp phải tìm hiểu cặn kẽ, theo dõi sát sao các chính sách của nhà nước đối với việc tham gia AFTA, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hiểu rõ tiến trình tham gia CEPT của sản phẩm doanh nghiệp mình và của các sản phẩm tương tự.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.

1.2.5. Đa dạng hoá các phương thức kinh doanh tham gia vào mạng lưới phân phối trên thị trường ASEAN

Các doanh nghiệp Việt Nam cần kịp thời đổi mới phương thức kinh doanh cho phù hợp với tình hình và đặc điểm thị trường các nước ASEAN hiện nay

Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường ASEAN từ nay đến 2010 - 11


Tại một số nước ASEAN, hoạt động của hệ thống các kênh phân phối ảnh hưởng, thậm chí quyết định nhu cầu nhập khẩu và cung cầu của thị trường. Doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động tham gia vào mạng lưới phân phối, gây dựng được uy tín với các đối tác trong khu vực nhằm tạo cơ sở hợp tác trong lâu dài. Tại các nước có trình độ phát triển kinh tế cao, hệ thống phân phối đã được thiết lập từ lâu và nắm vai trò độc quyền trong kinh doanh, ta có thể tiến hành liên doanh liên kết với các doanh nghiệp bạn để thông qua các kênh phân phối sẵn có này tiếp cận thị trường, từng bước xây dung mạng lưới phân phối riêng của mình khi đã có đủ tiềm lực. Đối với các nước chậm phát triển hơn như Lào, Campuchia, doanh nghiệp Việt Nam có thể tiến hành các thủ tục lập các nhà phân phối, đại lý của riêng mình ngay từ đầu với quy mô phù hợp khả năng và mặt hàng nhằm thu được lợi nhuận tối đa.

1.2.6. Nâng cao chất lượng, đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cho lao động:

Nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Bên cạnh việc nâng cao trình độ và kỷ luật lao động của công nhân- những người trực tiếp làm ra sản phẩm của doanh nghiệp cũng cần nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ doanh nghiệp. Trong tất cả các mặt hoạt động của doanh nghiệp đều có sự tham gia của con người

Một trong những nguyên nhân mà doanh nghiệp khó tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng là khả năng lập dự án của các doanh nghiệp quá yếu. Việc lập dự án chưa tính toán đầy đủ, rõ ràng, chính xác các yếu tố chi phí đầu tư, công nghệ, thị trường, thời gian triển khai, hiệu quả dự án…làm ảnh hưởng đến thời gian của ngân hàng thương mại trong việc kiểm tra, thẩm định dự án và ra quyết định đầu tư. Các ngân hàng thương mại có nhận xét rằng: khả năng lập dự án đầu tư hoặc lập phương án sản xuất của hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ là hình thức, do đó không thuyết trình được tính khả thi để có thể vay vốn.

ở Việt Nam, lao động có trình độ cao và giá rẻ vẫn được xem là lợi thế so sánh lớn so với nhiều nước đang phát triển khác trên thế giới nói chung và một số nước trong khu vực ASEAN nói riêng. Tuy nhiên, việc khai thác triệt để lợi thế này để tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp vẫn còn khá hạn chế. Do đó, các doanh


nghiệp Việt Nam cần có chính sách phù hợp trong việc quản lý lực lượng lao động của mình như:

- Tạo sự gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm của người lao động với doanh nghiệp thông qua các chính sách như đầu tư cho các hoạt động đào tạo nâng cao trình độ tay nghề, đảm bảo công ăn việc làm ổn định, lâu dài cho người lao động; xây dựng chế độ tiền lương và thưởng theo hướng khuyến khích người lao động có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của doanh nghiệp.

- Tăng cường đào tạo phát triển nguồn nhân lực của doanh nghiệp. Đào tạo nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên, từ cán bộ quản lý đến công nhân lao động trực tiếp thông qua chất lượng và chương trình đào tạo cụ thể phù hợp với từng đối tượng, từng ngành nghề. Phổ biến kiến thức liên quan đến chất lượng sản phẩm như về hệ thống quản lí chất lượng mới ISO và các kiến thức về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, từ đó nâng cao chất lượng đội ngũ lao động của doanh nghiệp nhằm tạo ra một lực lượng lao động đáp ứng yêu cầu của kinh doanh

- Tổ chức hoạt động đào tạo tại chỗ để nâng cao khả năng thích ứng của lao động với tính chuyên biệt về công nghệ của doanh nghiệp, đồng thời giảm được khâu tuyển dụng và thử tay nghề của lao động từ nơi khác đến

- Lãnh đạo các doanh nghiệp cần nâng cao nhận thức của cán bộ doanh nghiệp về tầm quan trọng của hoạt động xúc tiến thương mại. Cần đào tạo cho cán bộ làm công tác xúc tiến thương mại về kỹ năng tiến hành các hoạt động xúc tiến thương mại như việc tìm hiểu thông tin về thị trường, lựa chọn thị trường, tham gia các cuộc hội chợ, triển lãm…

2. Những giải pháp đối với nhóm hàng chủ lực của Việt Nam xuất sang thị trường ASEAN:

2.1. Biện pháp đối với hàng nông sản (gạo, cà phê…):

Hàng nông sản (bao gồm mặt hàng gạo, cà phê, chè, rau quả các loại, hạt điều, hạt tiêu…) hiện chiếm một tỉ lệ cao trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang


thị trường ASEAN. Song do sức cạnh tranh còn thấp trên thị trường khu vực nên kim ngạch cũng như tỷ trọng trong tổng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường ASEN chưa tương xứng với tiềm năng của Việt Nam và nhu cầu nhập khẩu của các nước ASEAN. Do đó, trong thời gian tới, nhà nước và doanh nghiệp cần có những biện pháp thích hợp để nhóm hàng nông sản này có thể tận dụng tối ưu những thời cơ mà AFTA mang lại cho Việt Nam.

2.1.1. Tăng tỷ trọng hàng nông sản xuất khẩu qua chế biến:

Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT chủ yếu dành cho các sản phẩm đã qua chế biến. Song trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay, nông sản xuất khẩu chủ yếu dưới dạng thô hoặc sơ chế khiến cho hàng hoá Việt Nam không được hưởng lợi nhiều từ Hiệp định CEPT.

Hiện nay, công nghiệp chế biến của cả nước đã có sự tiến bộ vượt bậc hơn trước cả về số lượng cơ sở và trình độ công nghiệp. Đặc biệt, trong chế biến xuất khẩu gạo, một số công đoạn sau thu hoạch đã được đầu tư công nghệ và thiết bị mới, nhờ đó tỷ lệ gạo nguyên hạt và tỷ lệ thu hồi sau thu hoạch đã tăng lên, đồng thời khoảng cách chênh lệch về giá gạo với Thái Lan cũng đã được thu hẹp. Nhưng so với yêu cầu của sản xuất và xuất khẩu thì lực lượng chế biến đó vẫn chưa đáp ứng nổi nên phần lớn vẫn xuất khẩu dưới dạng thô và sơ chế dẫn đến tình trạng sức cạnh tranh kém, kim ngạch xuất khẩu thấp. Tỷ lệ nông sản xuất khẩu chế biến sâu của ta hiện mới chỉ đạt khoảng 25-30% bằng một nửa so với các nước ASEAN

Thực tiễn đó đặt ra yêu cầu bức thiết là phải đầu tư nghiên cứu khoa học công nghệ. Trong những năm trước mắt cần thực hiện được những nội dung sau:

Cần tập trung cho công tác nghiên cứu lai tạo giống, tạo ra những giống có năng suất, chất lượng cao đáp ứng cho chế biến và xuất khẩu

Gạo, hạt tiêu, hạt điều, cao su… của Việt Nam đều có năng suất thấp hơn so với các nước trong khu vực và thế giới, nên giá hàng nông sản xuất khẩu không cao, làm cho hiệu quả kinh tế thấp. Chúng ta cần phải tạo ra các mặt hàng mới có năng suất, chất lượng tốt, nhằm tạo nên sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Trong việc chọn giống, cần phải kết hợp các nguyên tắc sau đây:


Ưu tiên đầu tư cho việc tuyển chọn các loại giống truyền thống mang tính chất đặc sản có năng suất khá cao của từng địa phương, lập thành quỹ gien phục vụ cho các vùng chuyên canh xuất khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường.

Rút ngắn thời gian nghiên cứu, mạnh dạn đầu tư cho công tác thực nghiệm khu vực về nông sản, tiến tới áp dụng đại trà. Mặt khác, đẩy mạnh công tác khuyến nông nhanh chóng chuyển giao công nghệ cho nông dân.

Kết hợp với việc sử dụng các loại giống cây trồng trong nước đã thuần chủng với việc nhập khẩu các loại giống nông sản của thế giới có chất lượng cao, trực tiếp áp dụng hoặc lai tạo cho những giống cây trồng mới phù hợp với điều kiện của Việt Nam, đáp ứng được nhu cầu của thị trường thế giới.

Hình thành một cách đồng bộ, hoạt động có hiệu quả các cơ sở nhân giống phù hợp với điều kiện thời tiết khí hậu và thổ nhưỡng kết hợp với công tác bảo vệ cây trồng ở từng địa phương.

Bên cạnh việc nghiên cứu lựa chọn giống, chúng ta cần hợp tác với nước ngoài dưới nhiều hình thức như gia công xuất khẩu, hợp tác liên doanh, hình thành các khu công nghiệp tập trung…để tạo ra sự chuyển giao về giống từ các nước vào Việt Nam, tranh thủ được những phát minh mới, những bí quyết kỹ thuật về khoa học kỹ thuật nông nghiệp, đặc biệt về giống

Đầu tư cần được tiến hành một cách đồng bộ. Đặc bịêt, nâng cao trình độ canh tác và kỹ thuật của các hộ sản xuất. Nâng cao độ đồng đều về năng suất chất lượng đối với các hộ trong các vùng sản xuất, với sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan: kỹ thuật, quản lý và chỉ đạo sản xuất cùng các cơ quan kinh doanh…Cơ cấu đầu tư phải hướng vào những sản phẩm có lợi thế, có khả năng cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và thế giới.


2.1.2. Xây dựng thương hiệu cho hàng nông sản

Hàng nông sản Việt Nam hiện đã có mặt ở khắp các nước ASEAN nhưng đa phần trong số đó không có thương hiệu. Việc xác định thương hiệu cho hàng hoá xuất khẩu sẽ mang lại lợi ích rất lớn, nhất là những thương hiệu mạnh. Việt Nam có nhiều loại nông sản chất lượng không kém hàng nước ngoài nhưng vẫn chưa được thị trường thế giới chấp nhận như: Gạo Nàng Thơm, Hoa Hồng, Hoa sứ, gạo thơm An Giang, bưởi Năm Roi, chè Mộc Châu…Đó là do hàng Việt Nam chưa có thương hiệu uy tín, chưa có đăng ký bảo hộ IG.

Do vậy, trước hết chúng ta cần phải tiến hành xây dựng các chương trình xúc tiến thương mại, quảng bá, đăng ký và bảo hộ thương hiệu; phảI chú trọng đến thiết kế mẫu mã, bao bì và chất lượng sản phẩm, trong đó yêu cầu hàng đầu là phải nâng cao chất lượng sản phẩm. Một khi khách hàng đã quen được với sản phẩm, chúng ta sẽ có cơ hội bán được hàng hoá với giá cao hơn.

Việc đăng ký bảo hộ thương hiệu cho nông phẩm là cần thiết nhưng không thể thực hiện ngay mà đòi hỏi phảI có thời gian để nghiên cứu, sáng tạo. Vì vậy, trong khi chuẩn bị các điều kiện để xúc tiến việc đăng ký thương hiệu, chúng ta có thể tiến hành đăng ký bảo hộ IG cho sản phẩm. Đây là cách làm vừa rẻ tiền, vừa dễ thực hiện mà hàng hoá vẫn dễ tiêu thụ và giá trị gia tăng cao không kém so với việc bảo hộ thương hiệu.

2.1.3. Tạo nguồn nguyên liệu ổn định cho công nghiệp chế biến xuất khẩu:

Việc giảm dần nguyên liệu nhập khẩu tiến tới tự cung ứng nguyên liệu là con đường cơ bản để tăng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm sản. Muốn vậy, cần đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu tập trung theo hướng sau:

Coi trọng quy hoạch phát triển cây nguyên liệu cho công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản. Cùng với cơ chế khuyến khích phát triển trồng rừng, cần có cơ chế chính sách khuyến khích các cơ sở chế biến sử dụng nhiều nguyên liệu gỗ rừng trồng để đáp ứng yêu cầu về chất lượng sản phẩm chế biến xuất khẩu.


Đẩy mạnh diện tích trồng chè ở những vùng có điều kiện khí hậu thổ nhưỡng thích hợp. Nhanh chóng hình thành các vùng sản xuất chuyên canh tập trung có năng suất chất lượng cao, đảm bảo tăng diện tích trồng chè lên gấp đôi hiện nay.

Riêng đối với mặt hàng gạo, nguồn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu đòi hỏi phải xây dung vùng tập trung chuyên canh bởi vì lúa là sản phẩm rất dễ bị pha tạp khi các loại giống khác nhau được trồng gần nhau, khiến gạo có chất lượng kém và mất giá trên thị trường.

Còn đối với cà phê và hồ tiêu thì do sự biến động của nhu cầu thị trường nên không cần thiết phải mở rộng diện tích bằng mọi giá mà cần lựa chọn để có quy hoạch phát triển những loại giống mới đang được thị trường ASEAN ưa chuộng. Tập trung đầu tư thâm canh, tăng năng suất cây trồng và tăng sản lượng.

2.2. Biện pháp đối với nhóm hàng thuỷ sản:


Đẩy mạnh công tác quy hoạch phát triển nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến xuất khẩu thuỷ sản:

Công tác quy hoạch phát triển nuôi trồng và khai thác hợp lý nguồn lợi thuỷ sản là vấn đề có tính chất quyết định đến việc tăng sản lượng và xuất khẩu thuỷ sản. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng công tác quy hoạch thuỷ sản vẫn còn nhiều bất cập, hiện tượng thừa, thiếu nguyên liệu vẫn thường xuyên diễn ra ở một số nơi, một số thời điểm. Hơn nữa, do chưa làm tốt công tác quy hoạch vùng nên nhiều địa phương, những xung đột về lợi ích giữa các ngành đang bộc lộ (lợi ích giữa nuôi tôm và trồng lúa... đang diễn ra gay gắt ở đồng bằng sông Cửu Long). Thêm vào đó, việc quy hoạch thiếu đồng bộ giữa việc dẫn nước vào các vùng nuôI và việc thoát nước thải đang là nguy cơ lớn gây phát dịch bệnh trên diện rộng ở nhiều địa phương. Vì vậy, để phát triển nguồn nguyên liệu đáp ứng nhu cầu của chế biến hàng xuất khẩu, công tác quy hoạch thuỷ sản trong thời gian tới cần phải quan tâm đến các vấn đề sau:


- Công tác lập quy hoạch thuỷ sản cần phải dựa trên cơ sở liên ngành, tính chất của hệ sinh thời, và đặc điểm cộng đồng dân cư ở từng địa phương

- Bộ Thuỷ sản cần phải nhanh chóng hoàn thành bản đồ quy hoạch vùng nuôi trồng thuỷ sản và hướng dẫn ngư dân chuyển đổi có khoa học giữa sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản.

Ngăn chặn tình trạng lạm dụng hoá chất trong việc nuôi trồng thuỷ sản và tiêm chích hoá chất vào nguyên liệu chế biến:

- Ngành thuỷ sản Việt Nam cần nhanh chóng lập lại kỷ cương trong việc sử dụng hoá chất và khoáng sinh cả trong khâu cung cấp và sử dụng các sản phẩm hoá chất, khoáng sinh nuôi thuỷ sản.

- Cục quản lý chất lượng an toàn vệ sinh và thú y thuỷ sản (NAFIQAVED) cần nhanh chóng ban hành danh mục các hoá chất, khoáng sinh bị cấm và hạn chế sử dụng, đồng thời nâng cao năng lực xét nghiệm, phát hiện sớm và kiên quyết không cho xuất khẩu thuỷ sản có chứa hoá chất và dư lượng khoáng sinh.

- Tuyên truyền cho các hội nuôi trồng thuỷ sản về hậu quả của việc sử dụng các hoá chất, khoáng sinh bị cấm đối với xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.

- Cần nhanh chóng nghiên cứu và nhân rộng các mô hình nuôi tôm sinh thái, cá sinh thái ở các vùng nuôi.

Nâng cao hàm lượng chế biến và giá trị gia tăng của sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu:

Nhằm nâng cao hàm lượng chế biến và giá trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu, ngành thuỷ sản đã liên tục áp dụng những dây chuyền công nghệ tiên tiến để chế biến và bảo quản sản phẩm. Tuy nhiên, hiện nay nhiều cơ sở chế biến thủy sản nước ta ta vẫn cũng đang sử dụng công nghệ lạc hậu. Theo số liệu của Bộ Thuỷ sản thì có tới hơn 40% tổng số các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản theo hướng xuất khẩu đang sử dụng trang thiết bị và công nghệ lạc hậu. Do đó các sản phẩm xuất khẩu thuỷ sản của nước ta chủ yếu vẫn ở dạng nguyên liệu thô và sơ chế, không đáp ứng được yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm, nhiều sản phẩm vẫn con fphải bán quan trung gian (Singapore…) nên giá trị gia tăng thấp. Theo đánh giá của các

Xem tất cả 97 trang.

Ngày đăng: 12/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí