Các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình hoạt đông thương mại nói chung, sản xuất hàng hóa phục vụ xuất khẩu nói riêng cũng không nằm ngoài những nhóm yếu tố đó.
Cùng với những thành tựu trong sản xuất, nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước với sự đan xen của nhiều thành phần kinh tế ngày càng được hoàn thiện và phát triển. Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý, Nhà nước đã chủ động vận dụng có hiệu quả hơn các công cụ pháp luật, kế hoạch định hướng, chính sách và các công cụ đòn bẩy khác. Trong đó, việc đổi mới các chính sách về giá cả, thuế, đầu tư, lưu thông, xuất nhập khẩu... cũng như việc ứng dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật mới có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng thúc đẩy hoạt động thương mại nói chung, sản xuất hàng hóa xuất khẩu nói riêng phát triển với tốc độ ổn định và bền vững.
a) Chính sách tỷ giá và các đòn bẩy
Đây là nhân tố ảnh hưởng sâu sắc đến quy mô và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Chính sách tỷ giá hối đoái thuận lợi cho xuất khẩu là chính sách duy trì tỷ giá tương đối ổn định ở mức thấp (đồng nội tệ có tỷ giá tương đối thấp so với đồng ngoại tệ). Trong trường hợp ngược lại sẽ khuyến khích nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu. Kinh nghiệm của các nước đang thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu là điều chỉnh tỷ giá hối đoái thường kỳ để đạt được mức giá cân bằng trên thị trường và duy trì mức tỷ giá tương quan với chi phí và giá cả trong nước.
Bên cạnh việc xoá thuế xuất khẩu và hạn ngạch xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu cũng được coi là một trong những biện pháp có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ việc mở rộng xuất khẩu các mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu. Việc trợ cấp xuất khẩu có thể được thực hiện thông qua việc giảm lãi suất đối với vốn vay phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu.
b) Chính sách cân đối thanh toán và thương mại
Trong hoạt động thương mại nói chung, ổn định được cán cân thanh toán và cán cân thương mại có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần thúc đẩy sự
phát triển kinh tế. Tuy nhiên, những biện pháp cân bằng cán cân thanh toán không phải bằng hạn ngạch nhập khẩu, cấm nhập khẩu hoặc vay vốn mà phải bằng những chính sách khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu. Song song với việc này phải mở rộng quy mô xuất khẩu, đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu. Có như thế, một quốc gia mới có thể giảm dần nhập siêu, tiến tới cân bằng cán cân xuất-nhập khẩu.
Có thể bạn quan tâm!
- Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác- Lênin Về Thương Mại Quốc Tế
- Vai Trò Của Xuất Khẩu Hàng Hóa Trong Quá Trình Hội Nhập Ktqt
- Một Số Tiêu Chí Và Nhân Tố Tác Động Đến Đẩy Mạnh Xuất Khẩu Hàng Hoá Trong Quá Trình Hnktqt
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Giá Cả Hàng Hóa Xuất Khẩu
- Một Số Bài Học Rút Ra Cho Chdcnd Lào
- Đặc Điểm Tự Nhiên, Kinh Tế - Xã Hội Của Chdcnd Lào Ảnh Hưởng Đến Hoạt Động Xuất Khẩu
Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.
c) Chính sách giá sản phẩm phục vụ sản xuất hàng hóa xuất khẩu
Trong thực tế, giá xuất khẩu (và cả giá nhập khẩu) ít nhiều phù hợp với chi phí thị trường sẽ bằng giá trong nước, nếu loại trừ các chính sách điều tiết của Nhà nước. Lúc này, giá xuất nhập khẩu cung cấp chuẩn mực về chi phí tiêu thụ hay sản xuất sản phẩm để so sánh ngược trở lại với giá cả hình thành trong nước. Đối với công tác hoạch định chính sách giá, để xây dựng và đi đến quyết định một mức giá cụ thể của một loại hàng hóa thì phải xem xét tới rất nhiều yếu tố cả về thị trường trong nước và thị trường ngoài nước. Bài học chủ yếu của kinh nghiệm phát triển qua hơn một thập kỷ 90 của thế kỷ 20 là tầm quan trọng của sự “định hướng ra bên ngoài”. Đối với ngành thương mại cũng như những ngành sản xuất sản phẩm xuất khẩu khác, điều này có nghĩa là thị trường thế giới cung cấp những tính hiệu phù hợp nhất về sự thiếu hụt hoặc thừa tương đối của mỗi hàng hóa riêng biệt, và do vậy, làm nảy sinh nhu cầu sản xuất hoặc tiêu thụ những hàng hóa ấy. Giá xuất khẩu - giá mà một nước nhận được từ xuất khẩu một hàng hóa - truyền tín hiệu này tới những doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trong nước thông qua hệ thống thị trường theo đó, chính sách về thị trường, về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu cũng được mở rộng và phát triển theo. Các lực lượng thị trường truyền đạt giá xuất nhập khẩu cho các nhà ra quyết định trong nước là những người được tự do phản ứng bằng việc nhập khẩu hoặc xuất khẩu. Đáng tiếc là hệ thống lưu thông truyền các tín hiệu này vẫn còn kém hiệu quả và tốn kém. Hơn nữa, các quy tắc về thể chế, mặc dù đã được các cấp có thẩm quyền tạo điều kiện hết sức “cởi mở” trong quá trình tự do hóa thương mại nhưng vẫn hoàn toàn chưa
rõ ràng và trong thực hiện còn vướng mắc. Điều này sẽ làm tăng rủi ro và chi phí thương mại, ở mức trầm trọng hơn thì nó còn ngăn cản hiệu quả của các tín hiệu giá của thị trường thế giới truyền tới nông dân, thương gia và người tiêu dùng trong nước. Nếu như việc phản ứng nhanh đối với các cơ hội ở các thị trường này sẽ là một nguồn quan trọng đối với quá trình phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là kinh tế thương mại, thì sự thất bại trong truyền các tín hiệu cần thiết sẽ là sự trở ngại chủ yếu đối với quá trình phát triển đó.
d) Chính sách đầu tư, tín dụng thương mại tạo điều kiện phát triển sản xuất hàng hóa xuất khẩu
Trong phần này, xuất phát từ công thức của Keynes, tức là có phải khi tăng tín dụng (có nghĩa là cho vay nhiều) sẽ dẫn tới sự phát triển kinh tế nhanh hơn? Thực chất của vấn đề chủ yếu là làm sao khuyến khích và bảo đảm có nhiều tín dụng hơn cho các dự án đầu tư phát triển sản xuất hàng hóa xuất khẩu và các cơ sở chế biến. Hiện nay vẫn tiếp tục có sự tranh luận giữa hai cách tiếp cận: (1) tin tưởng vào sự phân phối và quyết định của Chính phủ, khi không trực tiếp phân phối nguồn vốn cho vay vào các mục đích, các ngành ưu tiên hơn; (2) chương trình tự do hóa tài chính được áp dụng rộng rãi ở một số nước phát triển.
Sự phân tích truyền thống và công thức của Jhon Maynard Keynes (1935), tập trung vào việc giữ lãi suất thấp để khuyến khích đầu tư nhằm tạo ra sản lượng cao hơn. Cách tiếp cận của Keynes cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết phải giảm tiền mặt để có thể bảo đảm sản xuất đạt đến tối đa. Lý thuyết này của Keynes rất phù hợp với chiến lược cung cấp chủ đạo, hấp dẫn và có vẻ thông thường về phát triển tài chính. Trong chiến lược này, tài chính sẽ được cung cấp trước hết cho các nhu cầu mang lại hiệu quả. Vì vậy, các chương trình và các tổ chức cho vay đặc biệt được thành lập để phục vụ các khách hàng và mặt hàng được ưu tiên. Người ta đã chỉ rõ, sự có mặt của các chủ ngân hàng sẽ kích thích các doanh nghiệp, người đầu tư sản xuất tăng cường quản lý sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và tích cực đầu tư. Nhiều nước
đang phát triển đã chấp nhận và thực hiện công thức của Keynes. Đối chiếu với lý thuyết kinh tế tân cổ điển, kinh nghiệm của các nước đi trước đã xây dựng một số nền tảng của hệ thống tín dụng nông nghiệp có hiệu quả.
Để thực hiện có hiệu quả chính sách tín dụng đối với thương mại nói chung, sản xuất hàng hóa nói riêng, cần quan tâm tới các vấn đề sau:
- Quan tâm đầu tư tín dụng cho công tác nghiên cứu khoa học, đưa giống mới, kỹ thuật cao, khuyến nông, thuỷ lợi, phát triển thị trường và đào tạo chuyên môn cho người sản xuất hàng hóa xuất khẩu;
- Củng cố kỷ luật tài chính của các doanh nghiệp sản xuất, công - nông nghiệp chế biến xuất khẩu và các ngân hàng để tạo sự lành mạnh về tài chính phục vụ sản xuất hàng hóa xuất khẩu.
e) Nghiên cứu, triển khai và tăng năng suất trong sản xuất hàng hóa xuất khẩu
Tăng năng suất được coi là nhân tố chủ yếu góp phần tăng trưởng sản xuất hàng hóa xuất khẩu; nó có ảnh hưởng trực tiếp tới việc nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hóa. Tất cả các hoạt động nghiên cứu, triển khai, đào tạo kỹ thuật, xây dựng kết cấu hạ tầng, thực hiện chính sách giá cả, đầu tư, tín dụng đều góp phần vào sự gia tăng năng suất. Khi nói đến việc ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất hàng hóa, áp dụng những mặt hàng mới có năng suất, chất lượng cao đi đôi với công tác xúc tiến thương mại, khuyến khích xuất khẩu đảm bảo chất lượng, tăng giá trị sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, tăng hàm lượng công nghệ trong sản phẩm, từ đó nâng cao giá trị sản phẩm xuất khẩu, đem lại thu nhập cho ngân sách.
Để khoa học và công nghệ đạt được mục tiêu phát triển thương mại với năng suất và chất lượng cao, bền vững thì điều quan trọng là phải đưa trình độ khoa học công nghệ của nhiều ngành đuổi kịp các nước trong khu vực và nâng mức đóng góp của tiến bộ khoa học công nghệ vào giá trị gia tăng của thương mại. Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác xúc tiến thương mại đến tận cơ sở và doanh nghiệp, nhằm giúp doanh nghiệp hiểu và
áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm hàng hóa...Trên từng lĩnh vực cụ thể tác động tới chất lượng sức cạnh tranh của hàng hóa Lào.
f) Chính sách phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ phục vụ chế biến hàng hóa xuất khẩu
Ưu tiên phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ với quy mô hợp lý ở khu vực trên địa bàn tỉnh và nông thôn; coi đây là bộ phận quan trọng của chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Đây là khu vực kinh tế có nhiều tiềm năng để hướng các ngành sản xuất khác vào khai thác thế mạnh của khu vực kinh tế này.
- Tập trung phát triển trên địa bàn các tỉnh và các vùng nông thôn sẽ góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập của công chức, viên chức và nông dân, giảm thiểu nhu cầu di cư vào các thành phố lớn, đô thị;
- Làm tăng mối liên kết nông thôn - thành thị để cùng phát triển vững chắc;
- Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực chế biến, lưu thông phân phối trên cơ sở nguồn nguyên liệu tại chỗ rất phong phú, góp phần nâng cao chất lượng, giá trị các mặt hàng chủ lực xuất khẩu nói riêng, các loại hàng hóa nói chung.
Trên cơ sở các chiến lược đề ra, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ phục vụ chế biến sản phẩm xuất khẩu đòi hỏi phải có một khuôn khổ pháp lý tương đối hoàn chỉnh để các loại hình doanh nghiệp này an tâm phát triển. Đồng thời, cần có hệ thống các cơ chế, chính sách, đòn bẩy để khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ nâng cao hiệu quả hoạt động của mình. Theo đó, cần quan tâm tới các chính sách sau:
- Về tín dụng đầu tư: hỗ trợ lãi suất cho đầu tư trang thiết bị sản xuất hiện đại, công nghệ mới về sản xuất, bảo quản, chế biến sản phẩm; hình thành các quỹ đầu tư bỏ vốn vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ phục vụ chế biến hàng hóa xuất khẩu; hỗ trợ tài chính cho công tác thông tin tiếp thị;
- Về chính sách thuế: miễn hoặc giảm một số loại thuế như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tài sản đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong một số năm đầu hoạt động tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn...
- Về chính sách thị trường và cạnh tranh, chính sách xuất nhập khẩu: Hạn chế tình trạng cạnh tranh quá mức giữa các loại hình doanh nghiệp này với các doanh nghiệp có quy mô lớn cùng ngành nghề; yêu cầu các doanh nghiệp quy mô lớn có kế hoạch thầu phụ đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ; tạo sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong thu mua sản phẩm, nguyên liệu phục vụ chế biến; ban hành các cơ chế, chính sách khuyến khích xuất khẩu 100% sản phẩm sản xuất ra; ưu đãi các vùng, lĩnh vực sản xuất hàng hóa xuất khẩu.
- Chính sách thông tin công nghệ; chính sách đào tạo nguồn nhân lực: hỗ trợ về thông tin thị trường, tiếp thị; dành một phần vốn ngân sách để đầu tư phát triển các công nghệ liên quan đến tự động hóa hay các máy móc thiết bị có năng suất cao...; đào tạo nâng cao trình độ tay nghề cho người sản xuất; có chính sách hỗ trợ chuyên gia về công nghệ, kỹ thuật nước ngoài giúp đỡ cho doanh nghiệp; đầu tư các trung tâm nghiên cứu giống sản phẩm mới có năng suất, chất lượng cao...
1.2.2.2. Các nhân tố thuộc về thị trường hàng hóa xuất khẩu
Nghiên cứu các nhân tố thị trường đối với các mặt hàng xuất khẩu không nằm ngoài việc xem xét đầy đủ các nhân tố thị trường xuất khẩu hàng hóa của mỗi một quốc gia.
Tất cả các quốc gia đều nằm trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế với các nước trong khu vực, trong bối cảnh đó, chính sách thị trường của mỗi nước không thể đi ngoài xu hướng chung của khu vực. Trong chính sách đối ngoại của mình, định hướng thị trường phù hợp sẽ là hướng ngoại, trước hết là nhằm vào khu vực Châu Á, kết hợp chặt chẽ với hướng nội, nhằm thoả mãn mọi nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Đồng thời, giữ những tỷ lệ cơ
cấu thích hợp về thị trường quan hệ thương mại với các nước có thế lực kinh tế mạnh như Nhật Bản, Mỹ, EU... để giữ thế cân bằng của Lào trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, việc khai thác các thị trường này chưa được đầy đủ và toàn diện.
Chúng ta biết rằng, chính sách chuyển dịch cơ cấu sản xuất và hàng hóa xuất khẩu phải gắn liền với chính sách chuyển dịch cơ cấu thị trường cho phù hợp với yêu cầu khách quan của nhu cầu thị trường, cũng như để bảo đảm cho sự phát triển sản xuất trong nước đúng với nhu cầu đích thực của thị trường, chứ không phải nằm trong chiến lược gây rối loạn thị trường và sản xuất của những thế lực kinh tế không thân thiện với Lào về lâu dài.
Về nguyên tắc, nếu đúng là nhu cầu khách quan của thị trường thì việc mở rộng theo bất kỳ hướng nào để tăng kim ngạch xuất khẩu đều là có lợi. Nhưng vấn đề phải nghiên cứu ở chỗ: phải biết được để tránh mở rộng về hướng thị trường có tiềm ẩn những nguy cơ bất lợi cho Lào về lâu dài và tăng cường về phía những thị trường ổn định và bền vững. Muốn vậy, cần quan tâm tới các cơ chế, chính sách, các hoạt động có liên quan trực tiếp tới xuất khẩu. Trong phần này, tác giả sẽ không đi vào đánh giá những mặt tích cực, hạn chế của các nhân tố thị trường nói chung cũng như việc phân đoạn thị trường cụ thể; mà chỉ tập trung nêu tóm tắt một số yếu tố, vừa thuộc về môi trường vĩ mô, vừa thuộc về chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu và coi đây như là những nhân tố quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới việc phát triển thị trường xuất khẩu hàng hóa nói chung, những mặt hàng chủ lực nói riêng.
- Quan hệ hợp tác thương mại với các nước, các thị trường khu vực và quốc tế phải gắn với xuất khẩu hàng hóa. Để làm được điều này thì cần có sự điều chỉnh hợp lý về chính sách xuất khẩu hàng hóa với chính sách nhập khẩu các loại hàng hóa khác ở cùng một thị trường. Cơ chế hàng đổi hàng có khả năng được phát huy tác dụng trong trường hợp này;
- Mở rộng cam kết song phương và đa phương cấp Chính phủ về xuất khẩu hàng hóa chính là cơ sở quan trọng, mang tính ổn định lâu dài trong điều
kiện hàng hóa xuất khẩu của Lào có sức cạnh tranh cao, phù hợp với yêu cầu thị trường quốc tế và khu vực. Tuy nhiên, cần lưu ý là các cam kết này đôi khi gắn với những điều kiện nhất định về kinh tế - chính trị - xã hội; do vậy, phải tính toán đầy đủ, toàn diện khi đi đến ký kết để bảo đảm hiệu quả tổng hợp của hoạt động xuất khẩu;
- Khai thác hình thức hàng trả nợ nước ngoài bằng những mặt hàng chủ lực. Đây là thị trường đã có địa chỉ; do vậy những nỗ lực về cả hai phía sẽ tạo khả năng tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Lào. Tuy nhiên, cần tính đến các phương thức trả nợ, nhất là về thủ tục, phương tiện thanh toán;
- Vai trò của các cơ quan đại diện ngoại giao và thương mại Lào ở nước ngoài là hết sức quan trọng trong việc khai thác, mở rộng quan hệ thương mại nói chung, xuất khẩu hàng hóa nói riêng;
- Công tác thu thập, xử lý thông tin, dự báo về khả năng thị trường trong nước và nước ngoài để cung cấp cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh; đặc biệt là phát triển thương mại điện tử trong việc cung cấp các cơ hội thị trường xuất khẩu là hướng đi đúng đắn và hiệu quả nhất hiện nay trong việc phát triển thị trường xuất khẩu;
- Cùng với sự chủ động của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa thì việc phát huy vai trò của các Hiệp hội các loại ngành sản phẩm trong chiến lược thị trường xuất khẩu sẽ giúp cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu mặt hàng này.
- Xúc tiến thương mại trong xuất khẩu hàng hóa: theo đó là hoạt động của doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu hàng hóa tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến tốc độ lưu thông hàng hóa, nhằm thu hút sự quan tâm của người tiêu dùng, tăng thị phần cho hàng hóa qua đó hỗ trợ cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các mặt hàng. Các hoạt động xúc tiến thương mại trong hàng hóa bao gồm:
Hoạt động thu thập và phân tích tất cả các thông tin có liên quan đến các loại hàng hóa của các cơ quan đại diện Chính phủ ở nước ngoài, các cơ quan