Đảm Bảo Quyền Bình Đẳng Của Các Chủ Thể Tham Gia Hoạt Động Xuất Nhập Khẩu:


Trong xu thế hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, hàng rào ngăn cản tinh vi hơn như thuế quan, quota… đang bị cắt giảm dần mà chuyển sang các rào cản tinh vi hơn như các quy định về chất lượng. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam phải nâng cao chất lượng sản phẩm của mình đạt được tiêu chuẩn quốc tế thì mới nâng cao được sức cạnh tranh và có vị thế không những trên thị trường ASEAN mà cả trên thị trường thế giới.

1.1.6.5. Đảm bảo quyền bình đẳng của các chủ thể tham gia hoạt động xuất nhập khẩu:

Tính năng động và hiệu quả của nền kinh tế là hai yếu tố quyết định sự thành công của quá trình hội nhập trong xu thế tự do hoá thương mại. Hai đặc tính này sẽ được tăng cường nếu khai thác được hết thế mạnh của chính sách kinh tế nhiều thành phần. Kinh tế Nhà nước có thể tập trung vào một số lĩnh vực chủ đạo như năng lượng, khai khoáng, viễn thông, lương thực,… còn các thành phần kinh tế khác sẽ được khuyến khích phát triển trong những lĩnh vực còn lại trong đó có lĩnh vực thương mại nhằm tận dụng triệt để tiềm năng và khả năng thích ứng nhanh của các thành phần kinh tế này.

Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có thể đóng góp được nhiều hơn nữa cho hoạt động xuất nhập khẩu nếu họ tham gia bình đẳng với các thành phần kinh tế quốc doanh trong hoạt động kinh tế. Trước hết là bình đẳng hoàn toàn trong việc tiếp cận các yếu tố đầu vào (vốn tín dụng, đất đai, lao động), sau đó là sự bình đẳng trong việc nhận hỗ trợ kinh doanh từ phía Nhà nước. Do đó, Nhà nước cần phải có một kế hoạch chi tiết trong vấn đề theo các hướng sau:

- Thừa nhận vai trò tích cực của kinh tế ngoài quốc doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Kinh tế Nhà nước có thể rút dần khỏi những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động (như dệt may, giày dép) theo hướng đẩy mạnh cổ phần hoá.

- Kinh tế quốc doanh sau khi được sắp xếp lại sẽ tập trung vào các lĩnh vực đòi hỏi vốn đầu tư lớn, trình độ công nghệ cao để thực hiện sứ mệnh mở đường;


- Đơn giản hóa đến mức tối đa thủ tục thành lập doanh nghiệp để kích thích các cá nhân bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất.

- Rà soát lại các quy chế về đất đai, thuế khoá, tín dụng, hỗ trợ… để đảm bảo sự bình đẳng tối đa có thể được giữa các thành phần kinh tế.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.

1.1.6.6. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại

Nhà nước cần quản lý và định hướng cho hoạt động xúc tiến thương mại. Trong những năm gần đây, hoạt động xúc tiến thương mại ở nước ta đã tong bước phát triển. Cục xúc tiến thương mại trực thuộc Bộ Thương Mại đã được thành lập vào năm 2000. Có thể nói cho đến nay về mặt thể chế, các tổ chức xúc tiến thương mại của Việt Nam đã được hình thành theo một hệ thống khá hoàn chỉnh. Tuy nhiên, hiệu quả các hoạt động xúc tiến thương mại ở nước ta chưa đạt kết quả mong đợi. Vì vậy, trong thời gian tới Nhà nước và các tổ chức xúc tiến thương mại cần chú ý một số điểm sau:

Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường ASEAN từ nay đến 2010 - 10

- Quán triệt đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xúc tiến thương mại ở tất cả các cấp độ kể cả Trung ương và chính quyền địa phương, các tổ chức xúc tiến thương mại và các doanh nghiệp trong tình hình hiện nay là vô cùng cần thiết. Trong bối cảnh Việt Nam tham gia AFTA với mục tiêu tự do hoá về thương mại và đầu tư, không chỉ riêng Việt Nam mà tất cả các nước ASEAN, đều rất quan tâm đến lĩnh vực xúc tiến thương mại nhằm mục đích hỗ trợ cho doanh nghiệp đón nhận được những cơ hội kinh doanh, giành phần thắng trong cuộc cạnh tranh thương mại trong khu vực

- Xây dựng cơ sở hạ tầng cho hoạt động xúc tiến thương mại. Hiện nay trong nước, kể cả ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh rất thiếu địa điểm có trang thiết bị, phương tiện và tiện nghi để có thể tổ chức những cuộc triển lãm thương mại tầm cỡ khu vực và quốc tế.

- Đào tạo đội ngũ xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp từ ngoại ngữ, kiến thức pháp luật thương mại quốc tế, nghệ thuật đàm phán.

1.2. Về phía doanh nghiệp:

1.2.1. Lựa chọn sản phẩm để thâm nhập thị trường ASEAN:


Mỗi doanh nghiệp có một thế mạnh riêng, cho nên việc lựa chọn hàng để thâm nhập thị trường ASEAN là rất khác nhau. Thị trường ASEAN là một thị trường đa dạng, lại không đòi hỏi quá cao về chất lượng sản phẩm, nên mỗi doanh nghiệp đều có thể phát triển sản phẩm của mình để thâm nhập thị trường này. Vấn đề là ở chỗ liệu doanh nghiệp có tận dụng được các ưu đãi về thuế quan cũng như các thủ tục mà AFTA và CEPT mang lại hay không?

Tham gia AFTA, doanh nghiệp Việt Nam gặp phải sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp ASEAN khác nên cần phải lựa chọn được sản phẩm có thế mạnh nhất của mình để tập trung đầu tư, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. Vì hàng hoá của các doanh nghiệp Việt Nam và ASEAN là tương đối giống nhau nên doanh nghiệp Việt Nam muốn giành phần thắng trên thị trường khu vực thì không những sản phẩm đó phải đáp ứng được yêu cầu về chất lượng và giá cả của thị trường mà còn phải độc đáo về tính năng và mẫu mã so với các sản phẩm cùng loại trong thị trường khu vực. Sự thành công của sản phẩm tuỳ thuộc vào mức độ sản phẩm thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng và chúng khác biệt so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh như thế nào?

Hơn nữa, do ưu đãi về thuế quan của khu vực mậu dịch tự do ASEAN chủ yếu dành cho các sản phẩm chế biến, không khuyến khích các sản phẩm thô và sơ chế nên khi xây dựng các mặt hàng thâm nhập vào thị trường ASEAN, các doanh nghiệp Việt Nam nên chú trọng vào các sản phẩm chế biến để tận dụng tối đa các ưu đãi mà AFTA mang lại thì mới có khả năng cạnh tranh được với các doanh nghiệp khi AFTA hoàn tất.

Mặt hàng mà doanh nghiệp lựa chọn để xuất khẩu sang thị trường ASEAN phải tính đến khả năng tài chính của doanh nghiệp để có kế hoạch đầu tư thích hợp. Không nên lựa chọn những sản phẩm vượt quá khả năng đầu tư của doanh nghiệp mà nên lựa chọn một hay vài mặt hàng chủ lực doanh nghiệp hiểu rõ và phù hợp với nguồn vốn của mình để tập trung đầu tư, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Doanh nghiệp phải nắm bắt được nhu cầu về sản phẩm của từng nước trong khu vực cũng như nhu cầu tổng thể của thị trường ASEAN.


Trước mắt, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải lựa chọn được các mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế so sánh tương đối so với các nước khác như: các mặt hàng sử dụng nhiều lao động (may mặc, giày da…), các mặt hàng có nguồn gốc nguyên liệu sẵn có và dễ khai thác trong nước để tham gia xuất khẩu (hàng nông sản, thuỷ hải sản…) hoặc các mặt hàng mà có thể nhập khẩu được nguyên liệu từ các nước ASEAN để tận dụng được các ưu đãi về thuế từ các đầu vào này. Bên cạnh đó, doanh nghiệp Việt Nam cũng có thể khai thác ngay nguồn chất xám của các nhà trí thức trẻ Việt Nam để đầu tư xuất khẩu các sản phẩm thuộc công nghệ phần mềm, bưu chính viễn thông…

1.2.2. Nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm:

Nâng cao chất lượng sản phẩm, năng lực cạnh tranh của hàng hoá là vấn đề sống còn, là nhiệm vụ then chốt khi các doanh nghiệp Việt Nam muốn tồn tại trong nền kinh tế thị trường và đưa sản phẩm vào ASEAN. Hàng hoá Việt Nam kém lợi thế cạnh tranh xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong số đó có nguyên nhân khách quan, cần đến sự tác động, hỗ trợ của Nhà Nước nhưng điều cốt yếu là bản thân các doanh nghiệp phải tìm cách tự nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm doanh nghiệp của mình thông qua việc đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, cải tiến phương thức quản lý và đầu tư cho nghiên cứu và phát triển để tạo ra những sản phẩm khác biệt

Nâng cao chất lượng hàng hoá và dịch vụ đang là một vấn đề đặt ra đối với tất cả các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay khi mà chất lượng hàng hoá và dịch vụ đang trong xu thế hoà nhập và cạnh tranh. Để có chất lượng hàng hoá và dịch vụ đạt tiêu chuẩn tiêu chuẩn quốc tế, các doanh nghiệp phải thực hiện những quy định khắt khe trong lĩnh vực tiêu chuẩn đo lường chất lượng.

Để nâng cao chất lượng sản phẩm, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tiến hành một số giải pháp sau:

- Đầu tư đổi mới công nghệ.

- Tăng cường đầu tư cho việc nghiên cứu nhu cầu của thị trường các nước ASEAN để xác định đúng yêu cầu về mặt chất lượng. Trước hết là thu thập


thông tin ban đầu cho việc nghiên cứu cải tiến về các mặt: mẫu mã, bao bì, tiện lợi, thẩm mỹ…, không nhất thiết phải chất lượng cao mới tốt mà là phải có chất lượng sản phẩm tối ưu- đó là đáp ứng tối đa những đòi hỏi của nước tiêu dùng với chi phí thấp. Doanh nghiệp nên sản xuất ra những hàng hoá có các cấp chất lượng khác nhau theo các mức giá phân biệt với đối tượng tiêu dùng. Vì vậy, phải nghiên cứu nhu cầu thị trường từng thành viên ASEAN để xác định đúng yêu cầu về chất lượng, từ đó có phương án cải tiến thiết kế thích hợp. Các nước ASEAN có trình độ phát triển kinh tế khác nhau, mức sống người dân mỗi nước cũng khác nhau, cho nên yêu cầu của từng nước về chất lượng sản phẩm cũng như khả năng chấp nhận về giá đối với từng loại sản phẩm là khác nhau. Hiện nay, ở nước ta khâu thiết kế là khâu yếu, chưa được chú trọng khuyến khích đầu tư. Các doanh nghiệp Việt Nam có thể nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua thiết kế sản phẩm theo 2 cách: một là đa dạng hoá mẫu mã, kích thước, chủng loại; hai là tạo ra những sản phẩm mới có tính năng tác dụng mới, có ưu thế mới, từ đó nâng cao khả năng phù hợp của sản phẩm cho doanh nghiệp.

- Doanh nghiệp cần phân tích đánh giá nội lực, sản phẩm và dịch vụ của mình theo SWOT tức là mặt mạnh, mặt yếu, cơ hội và nguy cơ cả bên trong lẫn bên ngoài để xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực cho doanh nghiệp trên khu vực. Khi xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực của mình, doanh nghiệp cần xây dựng mặt hàng ngày càng cải tiến để nâng cao tỷ lệ hàng qua chế biến, tận dụng tối đa các nguyên liệu có nguồn gốc xuất xứ từ các nước thành viên ASEAN để sản phẩm làm ra được hưởng ưu đãi theo CEPT, góp phần giảm giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh trên thị trường ASEAN.

- Kiểm soát nâng cao chất lượng các yếu tố đầu vào, nhất là các nguyên liệu thu gom ở thị trường trong nước phục vụ cho các nhà máy chế biên. Chất lượng sản phẩm là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố bao gồm: Chất lượng của máy móc thiết bị sản xuất, chất lượng của nguyên vật liệu, các thông số kỹ thuật, bao bì, đóng gói mẫu mã, …Như vậy, nâng cao chất lượng các yếu


tố đầu vào của quá trình sản xuất đóng vai trò quan trọng trong nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường ASEAN

- Xây dựng hệ thống quản lý chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000: ISO là bộ tiêu chuẩn của Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế bao gồm các tiêu chuẩn quy định các chuẩn mực để đánh gía một hệ thống đảm bảo chất lượng của một tổ chức, kể cả sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các cơ quan, đơn vị, trường, viện,…ISO 9000 đã được chấp nhận và áp dụng rộng rãi trên thế giới trong đó có Việt Nam. Bộ tiêu chuẩn ISO9000 gồm 24 tiêu chuẩn, hướng dẫn các doanh nghiệp xây dựng hệ thống quản lý nhằm đảm bảo tính ổn định chất lượng cho sản phẩm, dịch vụ. ISO 9000 là một trong những công cụ quản lý chất lượng tốt nhất, nó có tác dụng thiết thực đến quyền lợi của con người. ISO 9000 sẽ có tác dụng tạo đà cho các doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và khu vực

1.2.3. Đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp

Thực hiện đầu tư công nghệ có chọn lọc để nâng cao chất lượng sản phẩm với chi phí tối ưu. Trong điều kiện của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, đầu tư đổi mới công nghệ là yếu tố quyết định đến chất lượng sản phẩm. Do những năm qua, mục tiêu chất lượng sản phẩm được chú trọng, nhiều doanh nghiệp đã thực hiện đầu tư đổi mới công nghệ nên đã duy trì và mở rộng thị trường, tăng khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên, sự đầu tư đổi mới công nghệ diễn ra ở trình độ thấp và mang tính cục bộ, lẻ tẻ bởi các sản phẩm của doanh nghiệp chưa có thị trường lớn, ổn định nên không dám đầu tư lớn. Vì thiếu vốn, thiếu thông tin về thị trường và năng lực nội sinh của doanh nghiệp còn thấp nên đầu tư đổi mới công nghệ đối với sản phẩm xuất khẩu để nâng cao chất lượng vẫn là vấn đề số một được quan tâm và cần tập trung theo các hướng sau:

- Danh mục công nghệ căn cứ vào chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp và xu thế phát triển công nghệ thế giới để lựa chọn công nghệ cho thích hợp, để


sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng phù hợp với nhu cầu thị trường ASEAN trên cơ sở tiết kiệm chi phí. Doanh nghiệp cần phải đầu tư đồng bộ dứt điểm từng dây chuyền công nghệ những sản phẩm quan trọng, mũi nhọn, tránh đầu tư tràn lan vừa mang nợ nhiều lại không hiệu quả.

- Đầu tư đổi mới công nghệ phải đi đôi với quá trình tiếp thu công nghệ mới và đồng bộ tiến hành tổ chức lại sản xuất, quản lý. Chuẩn bị đội ngũ cán bộ kỹ thuật và đào tạo công nhân để có khả năng vận hành, sử dụng công nghệ có hiệu quả nhất. Công nghiệp đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất, giúp doanh nghiệp tiết kiệm chí phí sản xuất, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Từng doanh nghiệp cần phải đánh giá đúng thực trạng công nghệ của mình, trên cơ sở đó, các doanh nghiệp đề ra chiến lược, kế hoạch đầu tư cho công nghệ mới hay đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ

- Thực hiện cải tiến nhỏ liên tục theo phương châm mọi lúc, mọi nơi với mọi người. Nâng cao chất lượng sản phẩm trong doanh nghiệp đòi hỏi phải được tiến hành liên tục để đáp ứng sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường. Sự cạnh tranh chất lượng sản phẩm phải đi đôi với cạnh tranh giá cả. Việc huy động mọi thành viên trong các doanh nghiệp tham gia thực hiện chiến lược chất lượng cải tiến nhỏ là phù hợp, bởi cải tiến nhỏ có thể là ý tưởng của mọi người. Cần tổ chức các hòm thư sáng kiến, các nhóm sáng kiến đồng thời với việc phổ biến thông tin thị trường cho người lao động.

- Doanh nghiệp cần chủ động tiếp cận công nghệ thông qua việc tích cực sử dụng có hiệu quả hơn hệ thống thông tin qua mạng. Thương mại điện tử tuy mới xuất hiện nhưng đang phát triển nhanh và tiềm năng cũng rất lớn. Thương mại điện tử có nhiều điểm ưu việt và thực sự là một công cụ mới cho chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu của doanh nghiệp. Trước hết, người bán và người mua được nối trực tiếp với nhau, không có hạn chế về không gian và thời gian, cho nên các doanh nghiệp có thể nâng cao hiệu quả của quá trình nghiên cứu thị trường. Nhờ có thương mại điện tử mà các doanh nghiệp xuất


khẩu giảm được chi phí quảng cáo, chi phí vận chuyển,…Mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam phải có thời gian dài mới có thể tham gia xuất khẩu hàng hoá qua Internet, nhưng ngay từ bây giờ các doanh nghiệp Việt Nam phải nhận thức được xu thế của phương thức kinh doanh hiện đại này và chuẩn bị đầy đủ về vốn, ngoại ngữ cũng như các yếu tố về kỹ thuật công nghệ thông tin để sẵn sàng hội nhập.

- Vấn đề quan trọng nhất là làm thế nào để doanh nghiệp có thể đổi mới công nghệ trong điều kiện hạn hẹp về nguồn vốn. Mô hình đổi mới thiết bị công nghệ được áp dụng có hiệu quả ở Công ty công nghiệp cao su miền Nam có thể là một gợi ý đối với các doanh nghiệp. Phương thức này được gói trọn trong ba hoạt động chính là: Nhập khẩu, nghiên cứu và chế tạo. Thông thường, đối vớ một loại thiết bị công ty nhập về hai chiếc, một chiếc đưa vào vận hành, một chiếc đưa vào khảo sát. Khi khảo sát như vậy, có những chi tiết nào có thể sản xuất được ở Việt Nam thì công ty lên bản vẽ tìm nhà sản xuất, mỗi nhà sản xuất làm ra một hoặc nhiều chi tiết, và công ty lắp ráp thành dây chuyền, điều quan trọng là chất lượng sản phẩm không được thua kém thiết bị nhập ngoại. Với cách thức như vậy, công ty công nghiệp cao su miền Nam đã xây dựng và đổi mới hầu hết thiết bị sản xuất với công nghệ của các nước tiên tiến nhưng giá thành của Việt Nam nhằm đạt tới những tiêu chuẩn về chất lượng mà các thị trường nước ngoài yêu cầu. Có thể thấy, một vấn đề không kém phần quan trọng bên cạnh vấn đề vốn để đổi mới công nghệ là con người. Doanh nghiệp nên có chiến lược thu hút các nhà khoa học, kỹ sư chế tạo…hợp tác với mình trong việc nghiên cứu và chế tạo lại công nghệ hiện đại của nước ngoài.

1.2.4. Đầu tư nghiên cứu về thị trường ASEAN

Doanh nghiệp muốn làm ăn thành công ở bất kỳ thị trường nào thì trước tiên phảI hiểu rõ thị trường đó về nhu cầu thị hiếu đối với sản phẩm, yêu cầu về chất lượng và giá cả của tong đối tượng tiêu dùng đối với sản phẩm, đồng thời hiểu rõ các sản phẩm cùng loại có mặt trên thị trường. Từ đó doanh nghiệp mới có kế hoạch

Xem tất cả 97 trang.

Ngày đăng: 12/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí